Lời toà soạn: Lịch sử 5.000 năm văn minh, văn hoá của Á Đông là cả một kho tàng vô giá cho hậu thế. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những quan niệm mới có phần thiên kiến, lệch lạc, lịch sử ấy đã bị cải biên và nguỵ tạo nhiều. Với mong muốn phục hưng lại nền văn minh vĩ đại cũng như những truyền thống đạo đức quý báu, chúng tôi tiến hành loạt bài về lịch sử Á Đông gửi đến quý độc giả, ngõ hầu phá giải được những quan niệm sai lệch hiện nay.
Sau khi Hàn Tín diệt Nguỵ, phá Triệu, công chiếm Huỳnh Dương, Thành Phụ, ưu thế trên chiến trường Hán Sở rõ ràng đã nghiêng về quân Hán. Lưu Bang dần xiết chặt vòng vây đối với Hạng Vũ, ngày thắng lợi cuối cùng đã không còn xa.
Xem thêm: Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3, Kỳ 4, Kỳ 5
1. Công chiếm nước Tề
Nước Tề đất rộng người đông, thực lực hùng hậu. Hán Sở giằng co, Tề bảo trì trung lập, ngồi trên núi nhìn hổ đấu. Sau khi Triệu bị công phá, Tề điều 20 vạn đại quân bày thành thế trận chờ sẵn Hàn Tín ở biên giới. Dù cho Lưu Bang âm hiểm xảo quyệt, lại cướp mất binh quyền của Hàn Tín, nhưng Hàn Tín đối với Hán vẫn một lòng trung thành như thuở đầu. Ông lập tức chiêu binh mãi mã, thành lập một nhánh quân mới, chuẩn bị công đánh nước Tề.
Hàn Tín có tài thao lược, tân binh chiêu mộ sau khi trải qua huấn luyện trong một thời gian ngắn đã trở thành những tinh binh anh dũng thiện chiến. Lưu Bang lo quân số tân binh không đủ để đối đầu với quân Tề, đã điều Tào Tham và Quán Anh đến giúp đỡ, đồng thời cũng thuận tiện giám sát Hàn Tín.
Trước đêm Hàn Tín xuất binh đánh Tề, mưu sĩ của Lưu Bang là Lệ Thực Kỳ xin được sang Tề khuyên giải. Ông đến nước Tề không e dè tuyên dương chiến tích ngày trước của Hàn Tín ngay trước mặt Tề vương Điền Quảng và tướng quốc nước Tề là Điền Hoành, liệt kê ra bài học kinh nghiệm của Ngụy vương Báo, Triệu vương Yết và Trần Dư, Hạ Thuyết và tiền lệ nước Yên đầu hàng, chỉ ra rằng quy hàng có thể bảo toàn được giang sơn, còn nếu không đầu hàng thì sẽ phải diệt vong.
Điền Hoành và Điền Quảng vốn không phải là đồng minh của Hạng Vũ, giao chiến với Hàn Tín cũng không nắm chắc phần thắng, liền bị Lệ Thực Kỳ thuyết phục, quyết định đầu hàng. Lệ Thực Kỳ được tôn làm thượng khách, đồng thời nước Tề cũng buông lỏng việc phòng thủ biên cương.
Hàn Tín dẫn theo quân đội tiến về phía đông, vẫn chưa từ bình nguyên vượt qua Hoàng Hà, thì nghe nói biện sĩ Lệ Thực Kỳ được Hán vương sai đi đã thuyết phục được nước Tề đầu hàng. Tuy không rõ nội tình, ông vẫn dự tính thu binh về lại kinh thành. Nhưng Khoái Triệt, mưu sĩ của ông lại, người nổi tiếng thông minh, nhanh nhạy, giỏi biện giải, lại có cách nghĩ khác.
Khoái Triệt cảm thấy việc Hàn Tín bãi binh ngưng chiến thật không thỏa đáng. Ông nhắc nhở Hàn Tín: “Đại tướng quân công đánh nước Tề là theo lệnh của Hán vương mà hành sự. Hán vương cử sứ giả khuyên giải nước Tề đầu hàng vốn chưa hề thông báo cho ông dừng việc tiến quân. Nếu bây giờ bãi binh không đánh Tề nữa, há không phải là trái lệnh của Hán vương hay sao? Hơn nữa, Lệ Thực Kỳ chỉ là một gã thư sinh, chỉ dựa vào ba tấc lưỡi thật sự có thể thuyết phục nước Tề lớn mạnh như vậy đầu hàng hay không? Nếu không có uy thế áp sát biên giới của đại quân ngài, đây vốn là chuyện không thể nào“.
Hàn Tín thấy lời của Khoái Triệt rất có đạo lý. Nước Tề thực lực lớn mạnh, rõ ràng không dễ mà phục tùng nhà Hán. Nếu như một ngày kia hình thế có biến, khó tránh việc Tề lại khởi tâm phản nghịch, chi bằng giải quyết triệt để là tốt nhất. Thế là nhân lúc quân Tề không phòng bị, Hàn Tín mau chóng dẫn đại quân vượt Hoàng Hà, tiêu diệt chủ lực quân Tề, dễ dàng chiếm lấy Lịch Hạ, cấp tốc công chiếm các nơi, ông đích thân dẫn chủ lực quân Hán ngày đêm tiến về Lâm Tri, kinh đô nước Tề.
Điền Quảng, Điền Hoành hay tin, giận đứng cả tóc gáy, cho rằng Lệ Thực Kỳ đến đây giả vờ chiêu an để nước Tề buông lơi phòng bị, giúp quân Hán thừa cơ tiến vào. Tề vương lệnh cho Lệ Thực Kỳ bảo Hàn Tín lui binh, nếu không sẽ phải xuống vạc dầu. Lệ Thực Kỳ đã chọn lấy cái chết. Sau khi giết Lệ Thực Kỳ, Điền Quảng, Điền Hoành hoảng hốt dẫn quân xông phá vòng vây. Hàn Tín chia binh đuổi theo tàn quân, quân Tề dọc đường liên tiếp bại trận, toàn bộ nước Tề mau chóng nằm trong tay Hàn Tín. Toàn bộ cuộc chiến diệt Tề trước sau không mất đến 1 tháng.
Có học giả đời sau quy cái chết của Lệ Thực Kỳ cho Hàn Tín, rằng Hàn Tín đánh Tề là bởi ông đố kỵ với công lao của Lệ Thực Kỳ, người vốn chỉ dùng 3 tấc lưỡi mà khuyên được cả nước Tề khuất phục. Thật ra, loại quan điểm này là hoàn toàn không có cơ sở. Nguyên nhân như sau:
Thứ nhất, Hàn Tín chí hướng cao xa, tấm lòng thoáng đãng, tuyệt không phải là phường tranh danh trục lợi. Ngay từ lúc bắt dầu dẫn binh chinh chiến, chiến công lừng lẫy, Lưu Bang không chỉ không trọng thưởng, trái lại ba lần bảy lượt đoạt lấy thành quả cho riêng mình. Hàn Tín đối với chuyện này không chút oán giận, vẫn một lòng tận tâm trung thành suy nghĩ cho Lưu Bang, hoàn toàn không có chút oán trời trách người. Sau khi đánh bại nước Triệu, Hàn Tín không tranh công thỉnh thưởng cho mình, mà xin Lưu Bang phong Trương Nhĩ làm Triệu vương, với công lao của Hàn Tín nếu muốn được sắc phong thì nào có gì khó?
Thứ hai, từ bình định Tam Tần đến dâng thư chiêu an nước Yên, rồi phá Nguỵ, đánh Triệu, công lao của Hàn Tín đối với Hán đã vượt trên tất cả chiến tướng và mưu sĩ của Lưu Bang, ông hoàn toàn không cần thiết phải tranh cao thấp với một mưu sĩ.
Thứ ba, cái chết của Lệ Thực Kỳ hoàn toàn là âm mưu của Lưu Bang. Trên chiến trường Huỳnh Dương, Lưu Bang mãi lún sâu vào tình thế xấu, bắt buộc phải phá được Tề để phân tán sức công đánh của Hạng Vũ, giải cứu Huỳnh Dương. Vì để việc phá Tề chắc chắn thành công, cũng là tự cứu mình, Lưu Bang bèn chi viện cho Hàn Tín.
Tuy đã có được chi viện nhưng so với quân Tề, số lượng quân Hán vẫn còn thua xa. Lệ Thực Kỳ tự mình xung phong chiêu an nước Tề, vừa khéo đã bị Lưu Bang lợi dụng. Lưu Bang một mặt để cho Lệ Thực Kỳ đi khuyên giải nhưng mặt khác lại không thông báo cho Hàn Tín dừng tiến quân. Đó chính là minh chứng rõ ràng nhất.
Đối với cái chết của Lệ Thực Kỳ, Lưu Bang vốn không chút tiếc rẻ. Lúc đầu vì để bản thân có thể trốn chạy, Lưu Bang đã từng mấy lần xô hai đứa con của mình xuống xe. Người mà ngay đến cả đến con mình cũng không màng thì làm sao có thể quan tâm đến một mưu sĩ hèn mọn đây?
Vậy nên cái chết của Lệ Thực Kỳ đích thực là âm mưu của Lưu Bang.
Đây cũng là một ngụy kế vô cùng thâm hiểm của Lưu Bang, để cho Hàn Tín dù chiến thắng hay bại trận đều không thể vẹn toàn. Nếu Hàn Tín không đánh nữa thì là làm trái ý chỉ của Lưu Bang, còn như Hàn Tín đánh thắng, vẫn là làm trái ý chỉ của Lưu Bang.
Lúc đó, Tề vương cũng chỉ là đồng ý quy thuận Lưu Bang ngoài miệng, vốn không có văn thư chính thức. Dựa theo biểu hiện xưa nay của nước Tề, loại quy thuận này giống với kế hoãn binh hơn, thực tế chính là tiếp tục ngồi yên trên núi nhìn hổ đấu. Nếu như không giải quyết lực lượng quân sự nước Tề tận gốc thì Hàn Tín không thể yên tâm kéo quân xuống phía nam đánh Sở được.
Cuộc chiến diệt Tề đã khiến cho ưu thế giằng co giữa hai bên rõ ràng nghiêng về bên Hán, quân Hán đã hoàn thành bao vây trên quy mô lớn đối với Hạng Vũ, bảo đảm thắng lợi sau cùng. Diệt Triệu, phạt Tề, đây đều là những trận đánh kinh điển của Hàn Tín với kế sách lấy ít thắng nhiều, bắt toàn bộ quân địch, giết chủ soái, công chiếm hoàn toàn một nước chỉ mất thời gian mấy tháng.
2. Trận chiến Duy Thủy
Trong khi Hàn Tín phá Tề, chính là lúc Hạng Vũ đông chinh Bành Thành lần thứ hai, trong 15 ngày đã thu lại 17 tòa thành trì, bình định đất Lương. Tề vương Điền Quảng thất trận, bất đắc dĩ đã cầu cứu Hạng Vũ. Hạng Vũ nhiều lần suy nghĩ, quyết định cử đại tướng Long Thư làm thống soái dẫn theo 20 vạn binh mã cứu Tề.
Long Thư hành động mau chóng, tháng 10 đã cùng Tề vương Điền Quảng hợp lực ở Cao Mật. Khi đó, tình thế đối với Hàn Tín vô cùng bất lợi, phía tây nam có quân của Điền Hoành, đông nam có quân của Điền Quang, đông bắc có quân của Điền Ký, hình thành thế giáp công. Long Thư là đệ nhất mãnh tướng dưới trướng của Hạng Vũ, đã từng hợp lực cùng Điền Vinh đại phá quân Tần ở Đông A, danh tướng Anh Bố cũng là bại tướng dưới tay ông.
Tề Sở liên minh hơn 20 vạn đại quân, quân của Long Thư phần nhiều là kỵ binh tinh nhuệ của thị tộc Lâu Phiền, anh dũng thiện chiến. Trong khi quân của Hàn Tín không đến 10 vạn, còn phải chia binh ở các nơi như Lịch Hạ, Lâm Truy, để ngăn nhóm quân của Điền Hoành, Điền Ký phản công.
Hai quân còn chưa giao tranh, mưu sĩ dưới trướng Long Thư đã hiến kế rằng, quân Hán cách xa bản thổ, liều chết chiến đấu, tinh nhuệ khó bề cản nổi. Còn hai quân Tề, Sở thì lại tác chiến ở ngay trước cửa nhà mình. Quân binh dễ bề tháo chạy. Bởi vậy, chi bằng xây dựng thành cao hào sâu để cho Tề vương phái đại thần tâm phúc chiêu hàng các thành ấp đã mất đi.
Những thành ấp đó nếu biết được quân vương của mình vẫn còn sống, cộng thêm quân Sở đến cứu viện, ắt đều sẽ vùng lên chống lại quân Hán. Quân Hán tạm lưu lại đất Tề, cách xa đất mình hai nghìn dặm, nếu như toàn bộ thành ấp nước Tề đều đứng lên chống lại, quân Hán sẽ không có chỗ nào lấy được lương thảo, như vậy vừa có thể không cần phải đánh mà lại khiến họ đầu hàng.
Đây quả đúng thật là thượng sách trong thượng sách để phá quân Hàn Tín, nhưng Long Thư lại không nghe theo. Ông nói: “Hàn Tín chẳng qua chỉ là kẻ sống nhờ bố thí của bà lão giặt đồ thuê, chui qua háng người khác, quả thật không có gì phải sợ. Huống hồ hiện nay cứu viện nước Tề, nếu không đánh một trận mà chỉ chờ quân Hán chủ động đầu hàng, thì ta còn có công trạng gì đáng để nhắc đến nữa! Nếu đánh bại được Hàn Tín, thì một nửa nước Tề chính là thuộc về ta rồi“.
Suy nghĩ của Long Thư chính là, nếu như kiên thủ không đánh, lực lượng quân Tề sẽ khôi phục mau chóng. Dù có thể đánh bại Hàn Tín, nhưng người nắm giữ nước Tề lần nữa vẫn là Điền thị, Long Thư và nước Sở sẽ không được lợi ích gì cả. Nước Tề và nước Sở nguyên vốn có thù không đội trời chung, lần này tạm gác ân oán sang một bên cũng thực là do tình thế ép buộc. Một khi mối nguy này đã không còn nữa, quan hệ hợp tác giữa hai bên cũng sẽ tan thành mây khói, thế thì Long Thư kéo quân lên bắc lần này chẳng qua chỉ là thêu hoa lên gấm cho nước Tề. Chính những điều này đã quyết định ông ta cần phải quyết đấu với Hàn Tín trên chiến trường.
Tháng 11 năm thứ 3 Hán Cao Tổ (năm 202 TCN – thời đó lấy tháng 10 là tháng giêng), quân đội hai nước Tề, Sở bày trận thế ở bên kia sông Duy Thủy. Điền Quảng và Long Thư hợp quân ở bờ phía đông của sông Duy Thủy, Hàn Tín thì ở bờ phía tây. Ưu thế về binh lực và địa hình hiểm yếu của sông Duy Thủy khiến Long Thư tin chắc mình sẽ chiến thắng.
Hàn Tín lệnh cho binh sĩ suốt đêm làm gấp hơn 10 nghìn cái túi, đựng đầy đất cát, cho số bao cát đó chặn ở thượng du của sông Duy Thủy, nước sông dồn tích lại tạo thành một đập chứa nước. Ông lệnh cho một nửa nhân mã mai phục ở bờ sông, còn bản thân ông thì dẫn theo một nửa số quân vượt sông tập kích Long Thư.
Long Thư cười thầm trong lòng: “Hàn Tín quả nhiên chỉ là phường hư danh, ngay đến chút đạo lý vượt sông công đánh cũng đều không biết, hãy để ta giáo huấn hắn ta một phen“. Thế là nhân lúc quân Hán mới vượt được một nửa con sông, Long Thư liền ra lệnh tấn công. Hàn Tín giả vờ quay lưng bỏ chạy về. Long Thư dương dương tự đắc, bèn xung phong đi đầu, cưỡi ngựa lên trước, dẫn theo đại quân vượt sông đuổi theo.
Quân tiên phong của Long Thư vừa mới qua sông, quân chủ lực mới qua được nửa sông, Hàn Tín lệnh cho quân sĩ phá bao đựng cát, nước sông ào ào chảy xuống, binh sĩ ở giữa sông đều bị cuốn trôi hơn một nửa. Quân Tề, quân Sở trên bờ bị ngăn bởi hai bên sông, đầu đuôi không thể tiếp ứng. Quân Hán thừa cơ đánh bật trở lại. Trong lúc hỗn chiến, Long Thư bị Tào Tham giết chết, toàn bộ liên quân Tề Sở ở bờ phía tây đều bị đội quân Hàn Tín tiêu diệt. Tàn quân của Long Thư phía đông dòng sông bỏ chạy toán loạn.
Hàn Tín dẫn quân đuổi theo tàn quân đến Thành Dương, bắt sống được Điền Quảng, Điền Quang và Điền Chương, giành được toàn thắng. Tào Tham đông tiến, dẹp yên quân của Điền Ký. Quán Anh đi về phía tây truy kích Điền Hoành. Điền Hoành dọc đường bại trận chạy đến đất Lương, quy thuận Bành Việt. Quán Anh tiếp tục tiến quân đến Can Thừa công đánh tướng Tề là Điền Hấp. Điền Hấp, Điền Quảng đều tử trận nơi chiến trường. Quân Hán bình định đất Tề, tổng cộng thu được hơn 70 thành trì.
3. Tự thỉnh phong vương
Hàn Tín đại phá quân của Long Thư, bình định nước Tề, bước tiếp theo chính là quyết chiến với Hạng Vũ. Trước lúc quyết chiến, then chốt nhất chính là củng cố thành quả đã đạt được. Người dân nước Tề trước nay không cam tâm bị người khác thống trị, thêm vào nữa là Điền Hoành còn chưa chết, càng tăng thêm tính không ổn định của nước Tề. Số thành trì nước Tề mà quân Hán chiếm lĩnh được còn nhiều hơn tổng số thành trì đã có trước đó. Vậy nên trấn giữ nước Tề quả thật là một thử thách rất to lớn.
Cục diện của nước Tề nếu so với nước Yên thì còn phức tạp hơn. Bên cạnh Hàn Tín cũng không có nhân tài quản lý đất nước được như Trương Nhĩ, mà chỉ có những kẻ võ phu như Quán Anh, Tào Tham. Bất đắc dĩ, Hàn Tín viết thư cho Lưu Bang: “Nước Tề là nước gian dối, hay gây biến, tráo trở. Biên giới phía nam là nước Sở, nếu không lập giả vương để giữ thì không thể bình định được. Xin cho thần được làm giả vương“, chính là thỉnh cầu bản thân được làm “giả vương nước Tề”, chính là ý thay mặt Tề vương.
Lưu Bang trước nay vốn nghi kỵ Hàn Tín, bởi phải nhờ vào Hàn Tín đối chọi với Hạng Vũ, bất đắc dĩ mới trao cho Hàn Tín binh quyền nhất định. Hàn Tín trong khi bình định nước Tề ở phía đông, Lưu Bang ở Quảng Võ bị Hạng Vũ bắn trúng phần ngực, về sau bao vây Chung Ly Muội không có kết quả lại bị Hạng Vũ đánh cho một trận bị dồn đến tiến thoái không được, một lòng trông ngóng Hàn Tín sau khi dẹp yên nước Tề mau chóng đến cứu viện mình.
Sau khi nhìn thấy thư của Hàn Tín, Lưu Bang không khỏi giận tím mặt, lớn tiếng chửi mắng ở trước mặt sứ giả. Trương Lương đứng ở bên cạnh vội giẫm vào chân của Lưu Bang một cái, nhắc ông ta tình thế nguy cấp, chi bằng hãy đối xử tử tế với Hàn Tín, cho Tín bảo vệ nước Tề. Còn như nước Tề phát sinh biến cố, hình thế sẽ càng bất lợi hơn.
Lưu Bang vốn giỏi về tâm kế, đương nhiên tự mình biết được nặng nhẹ, lập tức đổi giọng nói rằng: “Nếu muốn làm thì hãy làm chân vương, tội tình gì phải làm giả vương chứ?”. Bèn cử Trương Lương làm đặc sứ, mang ấn thụ đến đất Tề, phong cho Hàn Tín làm Tề vương. Khi Trương Lương đi lại dẫn theo đại bộ phận binh lực của Hàn Tín đến Huỳnh Dương quyết chiến với Hạng Vũ.
Người đời sau cho rằng hành động tự xin được phong vương này của Hàn Tín đã mang đến bi kịch cho ông. Những người ôm giữ quan điểm này đã bỏ qua tính cách cơ bản nhất của Lưu Bang và Hàn Tín, chỉ nhìn đến hiện tượng bề mặt.
Trước tiên, việc lập ra Tề vương là tình thế bắt buộc. Lưu Bang không nhìn ra được điểm này hoặc không thể chấp nhận điểm này. Hàn Tín dâng thư nói thẳng là hành động của bậc trung thần. Thế thì ai thích hợp làm chủ chính đất Tề đây? Hàn Tín ở đất Tề liên tiếp đánh thắng trận, uy danh tựa như mặt trời chính ngọ, ngoài Hàn Tín ra, xác thật không có người nào khác có thể ổn định thế cục của đất Tề.
Thứ hai, Hàn Tín đã lập nên biết bao chiến công hiển hách cho Lưu Bang, dù cho có thật sự luận công thỉnh thưởng, sắc phong cho ông làm Tề vương thì cũng không có gì là quá đáng.
Thứ ba, lòng đố kỵ chèn ép và tìm cách loại bỏ Hàn Tín của Lưu Bang vốn không phải từ khi Hàn Tín xin sắc phong cho mình là Tề vương mới bắt đầu, mà nguyên đã bắt đầu ngay từ khi rời khỏi Hán Trung. Mỗi lần đều là những lúc thân ở vào tình thế nước sôi lửa bỏng mới tái bổ nhiệm Hàn Tín. Còn khi tình huống vừa mới biến chuyển tốt lên một chút, Lưu Bang ngay lập tức tước lấy binh quyền hoặc kìm hãm sự phát triển của Hàn Tín. Tuy Hàn Tín mãi luôn lấy đức báo oán, một lòng trung thành với nhà Hán, cũng không thể cảm hóa được Lưu Bang.
4. Quyết không phản Hán
Tuy Lưu Bang ngay đến cả tước vương cũng không có ý muốn phong cho Hàn Tín nhưng công lao và năng lực của Hàn Tín đã được người trong thiên hạ biết quá rõ ràng. Rất nhiều kẻ sĩ có tầm nhìn đều nhận ra Hàn Tín mới là người nắm giữ đại cục, có thể thống nhất thiên hạ. Nếu Hàn Tín đầu quân cho Lưu Bang thì nhà Hán thắng. Nếu ông nghiêng về Hạng Vũ thì nước Sở thắng, còn như tự lập làm vương thì sẽ chia ba thiên hạ.
Hạng Vũ nguyên vốn tự tin bản thân mình là thiên hạ vô địch, vốn không xem trọng mưu trí và binh pháp. Cái chết của Long Thư đã giáng một đòn nặng vào đầu ông, sau khi suy đi nghĩ lại, Hạng Vũ đã thỉnh mời Vũ Thiệp có tài ăn nói đến thuyết phục Hàn Tín. Quê nhà của Vũ Thiệp sát với Hoài Âm, có thể xem là đồng hương của Hàn Tín, xưa nay dựa vào khẩu tài mà vang danh thiên hạ.
Vũ Thiệp đến gặp Hàn Tín, phân tích rõ bản chất con người của Lưu Bang, chỉ ra lòng tham không đáy, hành động bội tín bội nghĩa, trở mặt vô tình và lấy oán báo ân của ông ta, loại người không giảng tín nghĩa, tráo trở lật lọng thất thường như vậy làm sao có thể dựa dẫm được đây? Lưu Bang hiện nay sở dĩ chưa trở mặt với Hàn Tín, là vì muốn mượn Hàn Tín đối phó Hạng Vũ. Một khi Hạng Vũ bị tiêu diệt rồi, người kế tiếp sẽ đến lượt Hàn Tín. Người thông minh tài giỏi giống như Hàn Tín lẽ nào nhất định muốn đem sức phục vụ cho Hán vương để rồi đẩy bản thân mình vào hiểm cảnh hay sao?
Vũ Thiệp đã dùng hết lời lẽ sức bén, lập luận sắc sảo để phân tích cục diện, mỗi một câu đều nói trúng trọng tâm, nhưng Hàn Tín không chút động tâm, đã biểu đạt lòng trung thành “dù chết cũng không thay lòng”. Ông nhờ Vũ Thiệp gửi lời cảm ơn đến Hạng vương. Vũ Thiệp thấy Hàn Tín thái độ dứt khoát, cũng đành phải hậm hực bỏ đi.
Sau khi Vũ Thiệp đi rồi, Khoái Triệt, tâm phúc của Hàn Tín cũng đến cùng ông thảo luận chủ đề tương đồng. Ông hiểu rõ Hàn Tín trọng nghĩa khinh lợi, có ân ắt báo, vậy nên đã mượn thuật xem tướng mặt mà thuyết phục Hàn Tín. Ông nói đã từng được cao nhân chỉ điểm, am tường huyền cơ của thuật xem tướng, từ cốt cách mặt mũi suy đoán vận mệnh, trước nay đều ứng nghiệm cả. Hàn Tín quả nhiên rất lấy làm hứng thú, xin Khoái Triệt xem tướng mặt cho mình.
Khoái Triệt bảo Hàn Tín lệnh cho tả hữu lui ra, một lời hai ý nói rằng: “Chỉ xem tướng mặt của ngài, nhiều nhất chẳng qua là được phong hầu, hơn nữa còn có nguy hiểm. Nhưng nhìn lưng của ngài, thì quý không sao lường được“. Lưng (bối) mà Khoái Triệt nói ở đây ý là chỉ rời bỏ Hán vương, mặt (diện) là đối lập với lưng mà nói, ý chỉ trung thành với Hán vương.
Khoái Triệt nói: “Lúc thiên hạ mới khởi sự, các anh hùng hào kiệt đều xưng vương, hiệu triệu kẻ sĩ trong thiên hạ như mây họp, sương mù tụ lại, nhan nhản như vẩy cá, tấp nập như lửa bốc, như gió thổi. Lúc bấy giờ, họ chỉ lo nghĩ đến việc tiêu diệt nhà Tần đang suy vong mà thôi. Nay Sở và Hán tranh giành nhau khiến cho gan mật của những người trong thiên hạ phơi đầy đất, cha con bỏ xương ở ngoài đồng nội, kể không sao xiết.
Theo tôi, tình thế này nếu không có kẻ hiền thánh trong thiên hạ thì không sao dẹp nổi tai họa trong thiên hạ. Hiện nay tính mạng của hai vua đều treo ở tay túc hạ. Túc hạ theo Hán thì Hán thắng, theo Sở thì Sở thắng. Tôi xin phơi bày gan ruột, nói rõ lòng thành, trình bày cái kế ngu muội của tôi, chỉ sợ túc hạ không biết dùng. Nếu quả túc hạ nghe theo mưu kế của tôi, thì không gì bằng làm lợi cho cả đôi bên khiến họ đều sống chia ba thiên hạ, đứng theo thế vạc ba chân. Trong tình thế ấy thì cả hai bên không ai dám động binh trước.
Túc hạ là người hiền thánh, quân sĩ đông, giữ lấy nước Tề hùng mạnh, bắt nước Yên, nước Triệu theo mình, xuất quân ra miền đất trống ở đằng sau lưng họ mà kiềm chế hậu phương họ, thuận theo dân mong muốn quay đầu về hướng Tây để cho trăm họ được sống thì thiên hạ thế nào cũng chạy theo như gió thổi, như tiếng vang, còn ai dám không nghe!
Túc hạ cắt đất nước lớn, làm yếu nước mạnh, để lập chư hầu. Sau khi chư hầu đã được lập, thiên hạ lại nghe theo mà cảm tạ ân đức của nước Tề. Túc hạ cứ giữ lấy nước Tề cũ, nắm lấy đất Giao, đất Tứ, lấy đức của mình để vỗ về chư hầu, kín đáo nhún nhường thì các vua trong thiên hạ thế nào cũng kéo nhau đến chầu vua Tề vậy. Tôi được nghe: “Trời cho mà không lấy, thì sẽ mang lấy tội, thời cơ đến mà không theo thì sẽ mang lấy họa, xin túc hạ suy nghĩ cho kỹ”.
Hàn Tín nói: “Vua Hán đối đãi tôi rất hậu, lấy xe của mình để cho tôi đi, lấy áo của mình để cho tôi mặc, lấy cơm của mình để cho tôi ăn. Tôi nghe nói: Đi xe người ta thì lo điều lo của người ta, mặc áo của người ta thì mang điều lo nghĩ của người ta, ăn cơm người ta thì chết cho công việc của người ta. Tôi lẽ nào lại chạy theo lợi mà quên nghĩa?“.
Khoái Triệt nói: “Túc hạ tự cho là mình thân với vua Hán, muốn xây dựng cái công nghiệp muôn đời. Tôi trộm cho thế là lầm. Ngày xưa, Phạm Lãi, đại phu Chủng làm cho nước Việt sắp mất được tồn tại, làm cho Câu Tiễn dựng lên nghiệp bá, lập nên công, thành được danh, thế mà người thì chết, kẻ thì bỏ trốn. Thú trong đồng nội đã hết thì chó săn bị nấu.
Túc hạ vượt Tây Hà, cầm tù Ngụy vương, bắt Hạ Duyệt, đem quân xuống Tỉnh Hình, giết Thành An Quân, chiêu hàng đất Triệu, uy hiếp đất Yên, bình định đất Tề, sang đất Nam đánh gãy hai mươi vạn quân Sở, sang Đông giết Long Thư, quay về Tây để báo công. Như thế có thể nói công ấy không có hai ở trong thiên hạ mà mưu lược ấy không phải đời nào cũng có.
Bây giờ túc hạ mang cái uy lấn át cả chủ, ôm cái công không có cách nào thưởng, theo Sở thì người Sở không tin, về Hán thì người Hán hoảng sợ. Tức hạ muốn mang cái công lao, cái mưu lược ấy về đâu? Mình ở địa vị bầy tôi mà có cái uy lấn át cả chủ, có cái danh cao nhất trong thiên hạ, tôi trộm thấy làm nguy cho túc hạ“.
Hàn Tín ngăn lời Khoái Triệt, nói: “Tiên sinh đừng nói thêm nữa, để tôi suy nghĩ lại đã“. Qua mấy ngày, Khoái Triệt thấy Hàn Tín không có động tĩnh gì, lại đi thuyết phục một lần nữa, nói rằng: “Cái quý là ở chỗ biết hành động. Đại phàm công lao thì khó thành mà dễ bại, thời cơ thì khó được mà dễ mất. Ôi! Thời cơ không trở lại. Xin túc hạ xét rõ cho”.
Hàn Tín do dự không nỡ phản lại nhà Hán. Lại tự cho rằng mình lập được nhiều chiến công, Hán vương dẫu sao cũng sẽ không lấy mất nước Tề của mình. Khoái Triệt tự biết sự tình hệ trọng, nếu cuộc trò chuyện giữa họ bị tiết lộ ra bên ngoài, nhất định sẽ là họa diệt tộc, bèn giả điên làm thầy cúng, sống cuộc sống tha hương.
Hàn Tín trước sau không tự lập làm vương, kết cục cuối cùng quả thật đã ứng nghiệm dự ngôn: “Hạng vương hôm nay vong, thì ngày mai ắt đến lượt túc hạ” của Vũ Thiệp. Người đời sau đối với điều này bình phẩm rất nhiều. Rất nhiều người không thể hiểu được tấm lòng “thà người thiên hạ phụ ta, ta quyết không phụ người thiên hạ” của Hàn Tín, xem việc ông xem thường sinh tử, trọng lời hứa là “ngu si”.
Cũng có người sau nói tài hoa cái thế của Hàn Tín chỉ có thể dùng ở mặt quân sự, còn về mặt chính trị thì tuyệt không phải là đối thủ của Lưu Bang. Kỳ thật, thắng lợi của Hàn Tín trên chiến trường vốn không phải chỉ dựa vào binh nhiều tướng mạnh, thường là những lúc thân ở trong tuyệt cảnh hoặc thế yếu mà dùng trí huệ phi phàm giành được thắng lợi.
Loại trí mưu này không chỉ cần có năng lực quan sát cục diện cực kỳ tinh tế và phán đoán thời thế chuẩn xác, cũng cần quả cảm và khí phách siêu việt. Loại trí huệ này dùng ở đâu cũng là không ai có thể so sánh được. Vốn có thừa năng lực để giành lấy thiên hạ, nhưng ông đã không làm. Nhưng đây chính là Hàn Tín của lịch sử!
Theo Đại Kỷ Nguyên Tiếng Trung
Thiện Sinh biên dịch
Xem thêm:
- Hàn Tín, hùm thiêng khi đã sa cơ (Kỳ 5): Bày trận tựa sông, phá 20 vạn quân Triệu nhưng vẫn bị thu ấn tướng
- Lý Bạch, ánh trăng nghìn năm toả sáng bầu trời thi ca (P.3): Từ bỏ hoàng cung, tìm tiên học đạo
- Nỗi oan thấu trời xanh: Tại sao cô gái đẹp chết mà cả vùng gặp tai ương?