Lời toà soạn: Các dân tộc Á Đông có một nền văn minh vô cùng xán lạn. Lịch sử Á Đông nói chung, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam, rất hào hùng, tràn đầy khí chất. Lịch sử 5000 năm văn minh, văn hoá của Á Đông là cả một kho tàng vô giá cho hậu thế. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những quan niệm mới có phần thiên kiến, lệch lạc, lịch sử ấy đã bị cải biên và nguỵ tạo nhiều. Với mong muốn phục hưng lại nền văn minh vĩ đại cũng như những truyền thống đạo đức quý báu của người Á Đông, chúng tôi tiến hành loạt bài về lịch sử Việt Nam, Trung Hoa… gửi đến quý độc giả, ngõ hầu phá giải được những quan niệm sai lệch hiện nay.
Tháng 6 (năm 206 TCN) nguyên niên Hán Cao Tổ, Lưu Bang chọn ngày lành, lập đàn tràng, trai giới, tắm gội, bày đủ nghi lễ bái Hàn Tín làm đại tướng quân. Sau lễ bái tướng, Lưu Bang mau chóng hỏi Hàn Tín liệu có diệu kế khả thi nào để trở về Quan Trung hay không. Quân Hán binh nhược tướng thiếu, căn bản không phải là đối thủ của Hạng Vũ. Bởi vậy Lưu Bang cũng không có mục tiêu nào hơn, tâm nguyện lớn nhất của ông là chỉ mong có thể làm được Quan Trung vương.
1. Đối sách Hán Trung
Hàn Tín trước tiên chỉ ra cho Lưu Bang rằng muốn đem quân đông chinh thiên hạ, đối thủ lớn nhất chính là Hạng Vũ. Ông xin Lưu Bang so sánh tài nghệ với Hạng Vũ về đủ các mặt: lòng dũng cảm, tính quả quyết, lòng nhân hậu và binh lực xem rốt cuộc ai mạnh ai yếu. Lưu Bang im lặng hồi lâu, nói: “Đều không bằng được Hạng Vũ“. Như vậy, cũng chính là nói dù xét ở phương diện khả thi nhất là nhân hậu, ông ta cũng không được như Hạng Vũ.
Hàn Tín rời khỏi chỗ ngồi, sụp lạy Lưu Bang hai lạy, nói rằng: “Xin chúc mừng đại vương. Biết người biết ta mới có thể trăm trận trăm thắng. Thần cũng cho rằng đại vương không sánh nổi Hạng Vương. Tuy vậy thời thế biến đổi, mọi chuyện rồi sẽ đổi thay. Hạng Vũ hiện giờ tuy lớn mạnh, nhưng đại vương nhất định có thể đánh bại ông ta“.
Kế đó, Hàn Tín phân tích một loạt nhược điểm trong tính cách của Hạng Vũ. Hạng Vũ tuy vũ dũng hơn người, tiếng gầm thét có thể quát lui nghìn quân vạn mã, nhưng lại không biết trọng dụng hiền tài, chẳng qua chỉ là cái dũng của kẻ thất phu. Tuy lúc thường cung kính nhân từ với người, thuộc hạ bị bệnh cũng đều hỏi han ân cần, nhưng hễ đến khi cần phong tước thăng quan, ngay đến đại ấn đã khắc xong còn cứ mãi để sang một bên, dù cho mòn hết vẫn không nỡ trao cho người khác. Đây đúng thật là lòng dạ đàn bà.
Thêm nữa, sau khi trở thành Bá vương, Hạng Vũ cũng đã làm rất nhiều việc không thỏa đáng. Điều không thỏa đáng đầu tiên là, dù đã xưng bá thiên hạ, nhưng lại rời bỏ Quan Trung, dựng đô ở Bành Thành, mất đi địa lợi. Thứ hai, làm trái giao ước với Nghĩa đế, phân phong không công bằng. Vùng đất trù phú thì phân chia cho thân tín của mình chứ không phải là người có công lao lớn nhất, khiến cho các chư hầu căm phẫn bất bình, mất đi cái lợi nhân hòa.
Thứ ba, Hạng Vũ kiên quyết đưa Nghĩa đế đến vùng Giang Nam, các chư hầu thấy vậy nhao nhao bắt chước xua đuổi quân vương ở nơi đóng quân của mình, tự lập phe cánh dẫn đến thiên hạ đại loạn, mất đi lợi thế của thiên thời. Thứ tư, những nơi mà Hạng Vũ đi đến, không đâu là không tàn phá thảm hại, bởi vậy mà mất đi lòng dân.
Theo những lời phân tích của Hàn Tín, Hạng vương trên danh nghĩa là bá chủ, nhưng trên thực tế lại đã mất đi lòng dân thiên hạ. Nếu như Lưu Bang có thể làm ngược lại ông ta, trọng dụng những người anh dũng thiện chiến, dùng quân đội kỷ luật nghiêm minh, giương cao ngọn cờ chính nghĩa, thuận theo tâm nguyện về lại miền đông của các tướng sĩ, tất nhiên có thể chiến thắng Sở Bá vương.
Tảng đá đầu tiên cản đường quân Hán trở về Quan Trung là Chương Hàm, Tư Mã Hân và Đổng Ế. Hàn Tín cho rằng ba người này không khó đối phó. Họ vốn là tướng nước Tần, chinh chiến nhiều năm, binh sĩ dưới trướng đều theo họ vào sinh ra tử. Nhưng sau khi đầu hàng quân Sở, Hạng Vương chôn sống 20 vạn hàng quân nước Tần, duy chỉ có Chương Hàm, Tư Mã Hân và Đổng Ế ba người là còn giữ được mạng sống. Cha anh nước Tần căm hận ba người này đến tận xương tủy, họ làm vương ở Quan Trung, trong lòng người dân Quan Trung vốn không phục.
Còn Lưu Bang khi tiến vào Võ Quan, làm theo kiến nghị của Tiêu Hà, chỉ đặt ra ba điều quy ước đối với người dân chứ không quấy nhiễu gì thêm. Người dân Quan Trung bởi điều này mà cảm tạ ân đức khôn xiết, đối với việc Lưu Bang không thể trở thành Quan Trung vương đều cảm thấy bất bình. Nếu như Lưu Bang muốn phát binh tiến về phía đông, chỉ cần một đạo văn thư chính là đã có thể bình định Tam Tần.
Sách lược “đối sách Hán Trung” lần này của Hàn Tín vừa trù tính viễn cảnh tranh đoạt thiên hạ cùng Hạng Vũ, lại chỉ rõ ra chiến lược đoạt lấy Quan Trung sắp tới, mạnh yếu rõ ràng, thấu đáo, kiến giải độc đáo. Quan điểm của Hàn Tín vượt lên trên sự so sánh mạnh yếu trong quân sự, đem thắng thua trong chiến trận và được mất của lòng người liên hệ với nhau, đã phân tích ra được chỗ mạnh yếu của hai bên, lại nhìn thấy được biến hóa trong tương lai cùng điều kiện và thời cơ của sự biến hóa.
Tất cả đã biểu hiện ra hiểu biết sâu rộng và tầm nhìn xa phi thường của Hàn Tín. Người đời sau phần nhiều đều xem “Hán Trung đối sách” của Hàn Tín ngang hàng với “Long Trung đối sách” của Gia Cát Lượng, đáng để tôn sùng. Lưu Bang mau chóng đồng ý với sách lược này của Hàn Tín, mục tiêu đầu tiên chính là đánh vào Quan Trung, chiếm lấy Tam Tần.
2. Bình định Tam Tần
Giống hệt như Hàn Tín phân tích, sau khi Hạng Vũ phân phong chư hầu, mâu thuẫn thế lực giữa các phe cánh trong thiên hạ bắt đầu hiển lộ ra. Người nổi loạn đầu tiên là Điền Vinh của đất Tề. Điền Vinh là một thủ lĩnh quý tộc đất Tề. Vào thời của Hạng Lương (chú của Hạng Vũ), Điền Vinh đã mấy lần không nghe theo Hạng vương, lại không chịu đem binh theo Sở đánh Tần nên không được phong đất. Điền Vinh đối với việc này tỏ ra vô cùng bất mãn, đuổi Tề vương mà Hạng Vũ sắc phong đi, tự lập mình là Tề vương. Vinh giao ấn tướng quân cho tướng ở đất Lương là Bành Việt công đánh Định Đào, tức là lãnh địa của Hạng Vũ.
Tiếp đến, Trần Dư thấy Trương Nhĩ được sắc phong là Thường Sơn vương, Triệu Yết được phong là Đại vương mà bản thân không được chức tước gì thì vô cùng bất mãn, bèn liên minh với Điền Vinh để đối phó với Trương Nhĩ và Hạng Vũ. Trương Nhĩ binh bại bỏ chạy theo hàng Hán. Trần Dư đón Triệt Yết từ đất Đại về làm vương đất Triệu, bản thân mình thì là Đại vương.
Cùng trong lúc này, Liêu Đông vương Hàn Quảng cũng không thỏa mãn, muốn chiếm lãnh địa của Yên vương, sau cùng lại bị Yên vương tiêu diệt. Vùng đất Trung Nguyên khói lửa chiến tranh không dứt, đã lay động đến địa vị bá chủ của Hạng Vũ. Hạng Vũ cho rằng mọi chuyện đều là từ Điền Vinh mà ra, quyết định đích thân dẫn binh chinh phạt.
Hàn Tín nhận thấy thời cơ đã đến, vào tháng 8 năm đầu Hán Cao Tổ bèn dẫn quân đông chinh, phát khởi chiến dịch bình định Tam Tần.
Quan Trung và Hán Trung ngăn cách nhau bởi dãy núi Tần Lĩnh hiểm trở, giữa hai vùng chỉ có mấy con đường núi hiểm trở thông với nhau. Trên những sườn núi hiểm trở đó người ta đào hang, bắc cầu, nối liền với nhau thành các sạn đạo (đường lát ván, dùng gỗ bắt sàn ở chỗ khe núi hiểm hóc).
Mỗi con đường đều dài đến hàng mấy trăm dặm, vô cùng hiểm trở, chật hẹp, không tiện hành quân, vận chuyển lại càng khó khăn hơn. Trong đó, sạn đạo núi Bao Tà và Trần Thương là hai con đường quan trọng nhất. Sau khi Lưu Bang đi vào Hán Trung đã đốt bỏ đường Bao Tà vốn là sạn đạo dài hơn 600 dặm, muốn tu sửa cũng không phải là chuyện ngày một ngày hai. Bởi vậy chỉ còn Trần Thương là con đường có thể dùng được. Nhưng đầu đường có quân đội hùng hậu của Chương Hàm trấn giữ, muốn phá vòng vây cũng lại là chuyện chẳng dễ dàng chút nào.
Những chuyện này đều không làm khó được Hàn Tín. Ông cử Phàn Khoái, Chu Bột dẫn theo đại binh khuếch trương thanh thế, vờ tu sửa lại con đường Bao Tà đã bị thiêu hủy, làm ra vẻ như muốn xuất binh từ nơi này. Chương Hàm nhận được tin lập tức cử trọng binh phòng ngự ở cửa khẩu. Nơi này “một người trấn giữ ngoài cửa, vạn người khó vượt qua“, chỉ cần giữ chặt cửa quan thì đã có thể kê cao gối ngủ không cần phải lo lắng gì nữa.
Hàn Tín thấy Chương Hàm trúng kế, liền điều binh khiển tướng đi về phía tây, rời khỏi huyện Miễn (Thiểm Tây) rồi chuyển hướng đi về phía bắc, theo Cố đạo tiến quân vào Trần Thương. Trần Thương là nơi đóng quân tích trữ quân lương khi đó, vốn là một vùng yết hầu quan trọng. Quân Hán đi vào Trần Thương trước, chẳng khác nào lén vòng qua phía sau quân đội của ba vị vương đất Tần.
Đại bộ phận binh lực của Chương Hàm đều đã điều động đến Hàm Dương, vậy nên Trần Thương hầu như bỏ trống. Quân Hán không tốn chút hơi sức đã dễ dàng đoạt lấy Trần Thương. Chương Hàm được tin, gấp rút dẫn quân đến giao chiến với Hàn Tín. Quân Hán cơn giận dồn nén đã lâu, lại vừa thắng ngay trận đầu, sĩ khí ngút trời như mãnh hổ xuống núi.
Chương Hàm hấp tấp ứng chiến, lòng quân chưa yên. Trong lúc hai quân giao chiến, Phàn Khái, Chu Bột cũng dẫn quân đến hợp lực cùng Hàn Tín, ba mặt giáp công. Chương Hàm bại trận tự sát. Tư Mã Hân, Đổng Ế cũng lần lượt đầu hàng. Bình định Tam Tần chỉ mất thời gian vỏn vẹn 4 tháng. Từ đây, Quan Trung đã trở thành căn cứ địa quan trọng, làm thành bàn đạp để Lưu Bang có thể tranh đoạt thiên hạ sòng phẳng với Hạng Vũ.
Cái cách Hàn Tín dẫn quân Hán từ Hán Trung tiến vào Quan Trung được lịch sử gọi là “Minh tu sạn đạo, ám độ Trần Thương” (vờ sửa sạn đạo, lẻn qua Trần Thương), chính là điểm sáng đầu tiên của Hàn Tín trong nghiệp cầm quân. Bây giờ câu thành ngữ “Ám độ Trần Thương” dùng để chỉ mưu kế nhằm đánh lạc hướng đối phương. Chiến thuật “Minh tu sạn đạo, ám độ Trần Thương” mà Hàn Tín sáng tạo đã luôn được các nhà quân sự đời sau khen ngợi không ngớt lời, ứng dụng không biết bao nhiêu và cũng được đưa vào trong “Tam thập lục kế” của binh gia.
Quân Hán bình định Tam Tần là một việc chấn động nhưng Hạng Vũ nhất thời không có thời gian để bận tâm đến. Những mưu sĩ dưới trướng ông đều cùng cho rằng Lưu Bang mới chính là kẻ địch mạnh nhất. Đặc biệt là á phụ Phạm Tăng, liên tục khuyên Hạng Vũ phát binh tiến đánh Hán vương. Chính ngay lúc Hạng Vũ còn đang chần chừ chưa quyết, Trương Lương đưa mật thư đến, nói rằng Lưu Bang chẳng qua chỉ muốn làm Quan Trung vương mà thôi. Lưu Bang vẫn sẽ mãi mãi thần phục Hạng Vũ, đính kèm lá thư còn có một lá “thư phản hồi” về việc Điền Vinh, Bành Việt liên minh chống Sở muốn tranh thiên hạ.
Hạng Vũ xem thư xong liền tin là thật, thế là đích thân thống lĩnh đại quân bắc tiến, trước tiên đánh tan Bành Việt, sau lại quét sạch Điền Vinh ở Thành Dương, một lần nữa sắc phong Điền Giả làm Tề vương. Sau khi Hạng Vũ rời đi, em trai của Điền Vinh là Điền Hoành đã đuổi cổ Điền Giả. Hạng Vũ tức giận lại tức tốc dẫn quân trở lại giết Điền Hoành. Nhưng Điền Hoàng không giao chiến trực diện với Hạng Vũ mà áp dụng chiến thuật du kích. Hạng Vũ muốn đánh thì khó thắng, mà lui binh thì lại không nỡ, hoàn toàn sa lầy trong cuộc chiến với nước Tề.
Lưu Bang lại thừa cơ củng cố và mở rộng cơ nghiệp Quan Trung của mình. Văn thần võ tướng đều dồn dập kéo đến quy thuận. Quốc đô của Hán vương cũng từ Nam Trịnh hẻo lánh dời đến Nhạc Dương, phía đông thông với Tam Tấn (Triệu, Ngụy, Hàn). Trước sau, Lưu Bang đã thu phục được Hà Nam vương Thân Dương, Tây Ngụy vương Ngụy Báo, và Ân vương Tư Mã Bình, lại chiêu hàng cháu của Hàn Tương vương là Hàn Vương Tín, phế bỏ Hàn vương Trịnh Xương. Sau khi Trương Nhĩ bị Trần Thương đánh bại đã đầu hàng Lưu Bang, Trần Bình vốn dĩ là ở dưới trướng của Hạng Vũ nay cũng đến xin nương nhờ Lưu Bang.
3. Chặn đứng quân Sở ở Huỳnh Dương
Lãnh địa hiện tại của Lưu Bang đã được mở rộng thêm mấy lần, quân đội trong tay cũng đã từ 3 vạn tăng lên đến mấy chục vạn. Lúc này, Lưu Bang cảm thấy bản thân không cần đến Hàn Tín cũng có thể đọ sức với Hạng Vũ, đồng thời cũng lo sợ Hàn Tín danh vọng cao quá thì bất lợi cho mình. Thêm vào đó, Trương Lương lúc này cũng đã về lại bên cạnh Lưu Bang. Bởi thế, ông bèn hạ quyết tâm bãi bỏ binh quyền của Hàn Tín.
Trước đêm trực tiếp phát động tấn công Hạng Vũ, Lưu Bang đã điều chỉnh lại quân đội, ung dung thản nhiên bãi bỏ chức vụ đại tướng quân của Hàn Tín, để Tiêu Hà và Hàn Tín ở lại đóng giữ Quan Trung, tiêu diệt tàn binh quân Ung kiêm làm quân hậu viện, còn bản thân mình thì đích thân làm thống soái dẫn theo Trương Lương, Trần Bình đông tiến.
Trương Lương, tự Tử Phòng, cùng với Hàn Tín, Tiêu Hà được xưng là “tam kiệt” (ba anh tài) thời đầu nhà Hán, ông nội và cha của ông đều là thừa tướng nước Hàn. Sau khi Tần Thủy Hoàng diệt Hàn, Trương Lương lập mưu thích sát Tần Thủy Hoàng ở bãi cát Bác Lãng nhưng không thành, bèn đổi tên họ trốn đến Hạ Bì. Ở đây, ông gặp được Hoàng Thạch Công, một nhân vật thần bí đã truyền thụ cho ông “Thái Công binh pháp“. Từ đó, Trương Lương trở thành một mưu lược gia đầy tài năng. Về mưu lược, Trương Lương tuy có chỗ hơn người nhưng không thể một mình đảm đương quân cơ giống như Hàn Tín. Còn Lưu Bang căn bản không chút lo lắng bị Trương Lương uy hiếp nên cứ mãi ỷ lại vào Trương Lương.
Tháng ba năm thứ 2 Hán Cao Tổ (năm 205 TCN), đại quân Lưu Bang đi đến Lạc Dương. Theo kế sách của Trương Lương, Lưu Bang đích thân phát tang cho Nghĩa Đế bị Hạng Vũ giết hại, toàn quân mặc áo tang, đưa tang ba ngày, đồng thời phái sứ giả đi khắp các lộ chư hầu, hiệu lệnh thiên hạ thảo phạt Hạng Vũ báo thù cho Nghĩa Đế. Lưu Bang lấy điều này thu phục lòng dân, cũng tìm được lý do đường hoàng chính đáng cho việc xuất quân của mình.
Dưới ngọn cờ báo thù cho Nghĩa Đế, chỉ trong vòng một tháng, Lưu Bang đã tập hợp được 56 vạn đại quân, khí thế lớn mạnh, nhất tề tiến về kinh đô nước Sở là Bành Thành. Lúc này, đại quân chủ lực của Hạng Vũ và bản thân Hạng Vũ đều đang sa lầy trong cuộc chiến với nước Tề, hậu phương hoàn toàn trống rỗng. Lưu Bang một đường thẳng tiến, suốt hai nghìn dặm hầu như đều không gặp phải bất kỳ trở ngại nào, công hạ Bành Thành quá đỗi dễ dàng.
Lưu Bang bị thắng lợi làm mê mờ đầu óc, tưởng rằng chiếm được Bành Thành chính là đã có được thiên hạ, căn bản không đề phòng Hạng Vũ vẫn còn nguyên thực lực. Lưu Bang không mảy may phòng bị gì thì đã vội vàng đắm chìm trong thú vui tửu sắc. Hạng Vũ trước nay vốn không xem Lưu Bang vào đâu, mãi đến khi Bành Thành bị quân Hán đánh bại, nhớ lại ngày trước trong yến tiệc Hồng Môn chỉ vì quá mềm lòng mà không nỡ xuống tay với Lưu Bang. Thế mà giờ đây, Lưu Bang lại dám ngông cuồng đến cung phủ của mình tầm hoan tác lạc, Hạng Vũ càng nghĩ càng bực mình, nổi giận xung thiên, liền điểm 3 vạn tinh binh tức tốc hành quân về phía nam. Binh sĩ còn lại tiếp tục tác chiến với Điền Hoành.
Hạng Vũ chỉ trong một đêm đã tiến quân thần tốc đến huyện Tiêu, bẻ gãy cánh tay trái của quân Hán, đến giữa trưa thì lấy lại được Bành Thành. Quân Hán bị đánh bại lui về bên bờ sông Cốc, sông Tứ, bị quân Sở đuổi giết, hơn 10 vạn đại quân chen nhau rơi xuống nước mà chết. Tàn binh còn lại thì bỏ chạy về phía phía nam, đến bên bờ sông Tuy không còn đường chạy nữa, phía sau lại có binh lính đuổi theo, hơn 10 vạn đại quân bỏ mạng dưới nước. “Sử Ký – Hạng Vũ bản kỷ” có chép: “Nước sông Tuy vì thế mà không chảy nổi“.
Không đến một ngày, 56 vạn đại quân của Lưu Bang đã bị 3 vạn quân tinh nhuệ của Hạng Vũ đánh cho tả tơi manh giáp, bản thân Lưu Bang cũng bị quân Sở bao vây trùng trùng. Trong lúc nguy cấp, bỗng một trận gió lớn nổi lên, đất đá mù mịt, trời đất tối sầm, cây cối đổ rạp, mái nhà tung bay, quân Sở nhất thời không biết ứng phó thế nào. Lưu Bang thừa dịp đột phá vòng vây trốn thoát, chỉ có mấy mươi kỵ binh là cùng thoát ra được.
Lưu Bang cũng lạc mất người nhà, phụ thân Thái Công cùng vợ là Lã Trĩ bị quân Sở bắt làm con tin. Lưu Bang trên đường trốn chạy gặp được hai đứa con của mình, chính là Hiếu Huệ Đế Lưu Doanh và Lỗ Nguyên công chúa sau này. Ông ta vì để bản thân có thể nhẹ nhàng thoát nạn đã mấy lần xô hai đứa con của mình xuống xe ngựa. May thay Hạ hầu Anh mấy lần xuống vực hai đứa trẻ này lên xe, nhờ vậy mà Lưu Doanh và Lỗ Nguyên mới giữ được tính mạng.
Lưu Bang trong một trận này gần như đã mất sạch toàn bộ vốn liếng có được kể từ sau khi bình định Tam Tần, 56 vạn đại quân chỉ còn lại lèo tèo thưa thớt. Quân Hán từ Bành Thành rút về Huỳnh Dương, các lộ chư hầu đầu hàng Lưu Bang trước đây nay thấy quân Sở thắng lớn đều ngả về phía Hạng Vũ. Hình thế thay đổi đột ngột, phần lớn đất đai phía đông của Huỳnh Dương đã bị quân Sở chiếm lĩnh.
Nếu như Hạng Vũ khởi binh tấn công, Lưu Bang thật không còn bất cứ bình phong nào để có thể nương vào. Điền Hoành, Trần Dư trước đó tưởng có thể cầm chân Hạng Vũ nay đều đã cùng Hạng Vũ giảng hòa. Hạng Vũ bắt đầu chĩa ngọn giáo về phía Lưu Bang. Ông không khỏi rùng mình, trong lúc bất đắc dĩ đã thêm một lần nữa dùng lại Hàn Tín.
Hàn Tín được lệnh trong lúc nguy nan, lập tức điều binh đánh trả quân Sở, rất mau chóng lấy lại được phần lớn lãnh thổ phía đông Huỳnh Dương. Chiến tuyến đẩy mạnh về phía đông Huỳnh Dương, mãi cho đến chỗ chia đôi Huỳnh Dương và Bành Thành. Quân Hán đã kiến lập hệ thống phòng ngự vững chắc ở những nơi này, khiến cho hình thế Hán Sở tranh hùng từ tình thế nguy kịch cho quân Hán nay về lại trạng thái vững chãi.
Nếu như không có Hàn Tín xoay chuyển cục diện, kết cục của quân Hán quả thật khó tưởng tượng được. Chiến quả của Hàn Tín khiến quân Hán lần nữa phấn chấn trở lại, cũng khiến cho các lộ chư hầu khác không dám manh động nữa. Lưu Bang chuyển nguy thành an, lại có được cơ hội cùng Hạng Vũ tranh hùng lần nữa.
Theo Đại Kỷ Nguyên Tiếng Trung
Thiện Sinh biên dịch
Xem thêm:
- Hàn Tín, hùm thiêng khi đã sa cơ (Kỳ 3): Vạn dặm tìm minh chủ, đất khách gặp tri âm
- Hàn Tín, hùm thiêng khi đã sa cơ (Kỳ 2): Thời đại loạn lạc, không đất dụng võ
- Nỗi oan thấu trời xanh: Tại sao cô gái đẹp chết mà cả vùng gặp tai ương?