“Mệnh” là một khái niệm vô cùng quan trọng trong văn hóa truyền thống. Người xưa phần lớn đều kính Thiên tín mệnh, cho rằng “sống chết có số, phú quý do trời”, “trong mệnh chỉ có tám phần đấu gạo thì dù có đi khắp thiên hạ cũng không thể làm đầy được cả đấu“, “đại phú nhờ vào mệnh, tiểu phú nhờ vào cần”, “cái được là do ta may mắn, cái mất là do mệnh của ta”, “một đời đều là mệnh, nửa điểm không do người”. Ai cũng có mệnh của mình, và vận mệnh của mỗi người là khác nhau.

Vậy mệnh” rốt cuộc là gì? Mạnh Tử nói: “Mạc chi vi nhi vi giả, thiên dã; mạc chi trí nhi chí giả, mệnh dã“ (Tạm dịch: Việc mình không có ý làm, mà thành, đó là do ý trời vậy. Việc gì mình không mong cầu mà tự nhiên tới, đó là do mệnh trời vậy.)

Trong “Đổng Trọng Thư truyện”, Đổng Trọng Thư viết: Thiên lệnh chi vị mệnh” (Tạm dịch: Lệnh của Trời được gọi là mênh). Bởi vậy, mệnh và trời là có liên quan với nhau, cũng được gọi là “nhân mệnh quan thiên”. Vậy nên, mệnh cũng được gọi là “thiên mệnh”. Tức, mệnh hoặc thiên mệnh là tiên thiên, là điều khi sinh mang theo đến, hay cũng nói là trời định. Trong thuật đoán mệnh truyền thống,  người ta thường dựa vào tiến trình thời gian mà đem sự vận hành của sinh mệnh con người phân chia thành đại vận, tiểu vận, lưu niên. Sự vận hành của mệnh, chính là vận mệnh, cho nên mệnh cũng được gọi là “vận mệnh”, tức là vận trình khác nhau mà mệnh biểu hiện ra.

Sinh mệnh của con người là do một số vận trình khác nhau tạo thành. Nó có thể là vận may, hoặc là vận rủi, hoặc là trước may sau rủi, hoặc là rủi trước may sau. Ở các vận trình khác nhau của sinh mệnh sẽ biểu hiện ra chất lượng sinh mệnh khác nhau. Chất lượng thông thường của sinh mệnh là do giàu nghèo, sang hèn, sống thọ hay chết yểu, trắc trở hay suôn sẻ để đo lường. Bởi vậy, mệnh hay vận mệnh, trên thực tế chính là quỹ đạo vận hành của sinh mệnh con người vốn đã được trời định sẵn từ trước.

tinh khi

Văn hóa truyền thống Trung Hoa cho rằng, vận mệnh của con người là có thể biết trước được, đồng thời họ cũng rất coi trọng việc dự đoán trước vận mệnh của một người. Đây chính là điều mà người ta gọi là “thông hiểu số mệnh”. Khổng Từ giảng: “Bất tri mệnh, vô dĩ vi quân tử dã”, ý nói: Người không biết mệnh thì không là người quân tử). Khổng Tử cũng cho rằng: “Ngũ thập nhi tri thiên mệnh”, ý nói rằng, con người khi đến tuổi 50 thì hiểu được mệnh.

Vậy, vì sao lại cần phải biết mệnh? Dự tắc lập, bất dự tắc phế“, ý tứ là: Việc gì mà có sự chuẩn bị trước thì cũng sẽ thành, không có sự chuẩn bị trước thì thường thành dở dang. Từ xưa đến nay, cầu lợi tránh hại, cầu may mắn tránh hung dữ là bản năng của con người. Biết được vận mệnh của con người thì có thể ứng phó được với những điều nguy hiểm xảy ra trên con đường đời phía trước. Vậy nên, người xưa giảng bằng lòng với mệnh trời thì không lo lắng.

“Dịch Kinh” trong “Tứ Thư Ngũ Kinh” được xếp hạng đứng đầu trong các kinh thời cổ đại. Mà “Dịch Kinh” trên thực tế là một bộ sách về bói toán. “Hệ Từ” trong “Dịch Kinh” chính là dùng từ (một thể loại văn học cổ điển của Trung Quốc) để gieo quẻ đối với quẻ tượng đầu tiên. Khổng Từ đã dành cả đời để tiến hành nghiên cứu sâu đối với “Dịch Kinh”, thế cho nên đã đạt đến trình độ “vi biên tam tuyệt”

Cuốn “Dịch truyện” chính là những nhận thức tâm đắc trong nghiên cứu “Dịch Kinh” của Khổng Tử. Đạo gia Trung Quốc có thuật toán mệnh vô cùng phong phú; bao gồm Lục Hào, Mai Hoa Dịch Số, Tứ Trụ Bát Tự, Kỳ Môn Độn Giáp, Lục Nhâm, Thiết Bản Thần Số, tướng mặt, tướng tay, v.v…. Vì sao lại gọi là đoán mệnh? Là bởi vì trong văn hóa truyền thống cho rằng, hết thảy đều đã có định số. Đoán mệnh chính là căn cứ theo dịch số, mệnh số mà suy đoán vận mệnh của con người.

Gia Cat Luong 1

Trong sử sách của Trung Quốc đã ghi chép lại rất nhiều cao thủ tinh thông về thuật số đoán mệnh, như: Khương Tử Nha, Gia Cát Lượng, Viên Thiên Cang, Lý Thuần Phong, Lưu Bá Ôn, v.v…, quả thật là không sao kể hết. Trong tu luyện của Phật gia còn xuất hiện một loại công năng kỳ diệu là “túc mệnh thông”.Người có được loại công năng này có thể dùng thiên mục mà trực tiếp nhìn thấy được quá khứ, hiện tại, tương lai, thậm chí đời trước kiếp trước, nhiều kiếp nhiều đời của người khác.

Vận mệnh của con người tuy là trời định, là đã được định sẵn từ trước, nhưng không phải là không thể thay đổi được. Đạo gia Trung Quốc có cách nói “ngã mệnh tại ngã bất tại thiên”, ý nói rằng: mệnh của ta do ta chứ không do trời. Tức là con người có thể thông qua cố gắng sau này của mình, thì có thể tiến hành thay đổi được vận mệnh ở một mức độ nhất định. Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên“. Nếu sự cố gắng của con người là mù quáng, không đúng đắn thì không thể thay đổi được vận mệnh,mà trái lại lại càng làm cho nó tệ hại hơn, hỏng hơn. Vậy nên dưới tình huống thông thường, mọi người thường chỉ có thể là làm hết bổn phận của con người và nghe theo mệnh trời, nhưng tốt nhất là nên “thuận theo tự nhiên”.

Con người nếu muốn thật sự thay đổi vận mệnh thì cần phải hành xử thuận theo đạo trời. Bởi vì mệnh của con người là mệnh trời, là được Thần Phật, những sinh mệnh cao cấp trên Thiên thượng an bài. Căn cứ vào điều gì để an bài? Là căn cứ vào hành vi thiện ác và tỷ lệ lớn nhỏ của đức và nghiệp do hành vi thiện ác này gây ra ở đời trước hoặc nhiều đời trước kiếp trước của con người mà tạo ra an bài. Thiện nhân có thiện quả, ác nhân có ác quả, đây chính là cái gọi là thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo“.

Hết thảy các loại biểu hiện của vận mệnh con người, bao gồm: họa và phúc, trắc trở hay suôn sẻ, giàu và nghèo, cát và hung, thọ mệnh hay chết yểu… không có một điều gì là không phải kết quả của nhân quả báo ứng thiện ác. Vì vậy, vận mệnh của con người là do Thần Phật chủ trì, dựa theo thiên lý hay quy luật của vũ trụ mà đưa ra an bài. Mệnh là thể hiện của quy luật của vũ trụ hoặc phép tắc của vũ trụ trong quá trình sinh mệnh của con người.

Bởi vậy, nếu con người muốn thay đổi những điều không tốt trong vận mệnh của mình, thì cần phải tuân theo phép tắc, quy luật của vũ trụ, trọng đức hành thiện, gắng sức sữa chữa sai lầm trước đây, tránh làm điều ác. Bởi vì, đạo của Trời là ban thưởng cho cái thiện và trừng phạt cái ác. Đây chính là tu luyện truyền thống, tu luyện mới có thể thay đổi vận mệnh. Thông qua tu luyện mà thay đổi vận mệnh được gọi là “tu mệnh”. Viên Liễu Phàm tác giả của “Liễu Phàm Tứ Huấn” chính là một tấm gương điển hình của việc tu mệnh thành công. Cái gọi là: “Đoán mệnh không bằng chấp nhận số mệnh, chấp nhận số mệnh không bằng tu mệnh”, đạo lý chính là ở chỗ này.

Kết quả hình ảnh cho liễu phàm tứ huấn

Cội nguồn của tu mệnh chính là tu tâm. Tâm là cái gốc của hành vi cử chỉ và các loại biểu hiện của sinh mệnh con người. Tâm thiện thì hành vi tất sẽ thiện, tâm ác thì hành vi tất sẽ ác. Tu tâm chính là thay đổi hết thảy những tư tưởng quan niệm không phù hợp với Phật pháp và Đạo pháp của bản thân mình. Tu tâm mới có thể từ căn bản mà thay đổi được hết thảy những thứ không tốt trong vận mệnh của con người.

Người xưa có câu: “Nhất thiết phúc điền, bất ly phương thốn“, là có ý nói rằng hết thảy ruộng phúc không ở đâu xa mà ở ngay gần lòng người. Nói về mối quan hệ giữa tâm và mệnh, có một bài “Tâm mệnh ca” nói viết rằng: Mệnh tốt tâm cũng tốt, phú quý mãi đến già. Mệnh tốt tâm không tốt thì sẽ thất bài giữa đường. Tâm tốt mệnh không tốt, trời đất cuối cùng cũng bảo hộ cho. Tâm mệnh đều không tốt, bần cùng chịu phiền não“. Tướng do tâm sinh, cảnh tùy tâm chuyển. Tu tâm có thể bù đắp được hết những thiếu sót trong vận mệnh đã được an bài trước, tu tâm có thể xoay chuyển và cải biến được vận hạn trong đời.

Không phải chỉ những ai có vận mệnh không tốt mới cần phải tu tâm. Trên thực tế mỗi người đều cần phải tu luyện và tu tâm. Người dẫu có vận mệnh tốt hơn người khác đi nữa thì cuối cùng cũng không tránh khỏi “sinh lão bệnh tử”. Phú quý danh lợi không mang đến khi sinh, không mang theo khi chết. Sau khi phúc phận đã hưởng hết, có thể phải tiếp tục nhập lục đạo trong tam giới, luân hồi không dứt.

Bởi vậy, thay đổi vận mệnh mà người bình thường nói đến, trên thực tế chẳng qua chỉ là cải thiện vận mệnh cho tốt hơn mà thôi. Một người nếu muốn triệt để thay đổi vận mệnh, vĩnh viễn giữ được thân người, không còn phải chịu khổ nữa, thì duy chỉ có phát đại thệ nguyện, khởi tâm tinh tấn, gian khổ tu luyện Đại Pháp, cuối cùng tu đắc chính quả, thoát ly khỏi lục đạo trong tam giới.

Theo Secretchina
Mai Trà biên dịch

Xem thêm: