Lời toà soạn: Lịch sử 5.000 năm văn minh, văn hoá của Á Đông là cả một kho tàng vô giá cho hậu thế. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những quan niệm mới có phần thiên kiến, lệch lạc, lịch sử ấy đã bị cải biên và nguỵ tạo nhiều. Với mong muốn phục hưng lại nền văn minh vĩ đại cũng như những truyền thống đạo đức quý báu, chúng tôi tiến hành loạt bài về lịch sử Á Đông gửi đến quý độc giả, ngõ hầu phá giải được những quan niệm sai lệch hiện nay.
Xuất thân bần hàn, ít học, nhờ nỗ lực cần cù, ý chí sắt đá mà trở thành tướng quân, Đại đô đốc nắm giữ binh quyền cả nước, ông là một anh hùng nổi tiếng thời Tam Quốc phân hùng. Thế nhưng đời binh nghiệp của ông lại ít được người đời biết tới, có vẻ lu mờ hẳn giữa những tên tuổi nổi bật như Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Tử Long hay Chu Du.
Lã Mông (178 – 220), tự Tử Minh là danh tướng của Đông Ngô dưới thời Tôn Quyền. Người ta gọi ông là “Lã Hổ Uy” (nghĩa là tướng quân họ Lã uy như hổ). Ngày trẻ, ông vốn nghèo khổ, ít được đi học, chỉ một lòng theo nghiệp nhà binh. Năm 15, 16 tuổi, Lã Mông đã theo anh rể ra trận. Anh rể của Mông vốn là thuộc hạ của Tôn Sách, bởi vậy Mông cũng được theo hầu dưới trướng nhà họ Tôn, đánh đông dẹp bắc, thu phục cả miền Giang Đông, lập nên cơ nghiệp.
Sau khi kế vị Tôn Sách làm chủ Giang Đông, Tôn Quyền gọi Lã Mông đến và khuyên ông nên đọc thêm sách vở, cố công học hành binh thư, lễ nghĩa. Lã Mông nghe lời, dốc chí học hành, trau dồi Thi Thư, binh pháp, chẳng mấy chốc đều thông hiểu cả. Lỗ Túc thường khen Lã Mông rằng: “Ta vẫn cho đệ chỉ là kẻ vũ lược, nay mới thấy học thức tài ba uyên bác, không phải là A Mông ở Ngô quận nữa rồi!“. Ngày trẻ, Lã Mông thường bị người ta trêu chọc gọi là A Mông vì không hiểu chữ nghĩa, kém học hành.
Với tài thao lược của mình, Lã Mông mau chóng trở thành một nhân vật trụ cột ở Đông Ngô. Sau khi Chu Du và Lỗ Túc yểu mệnh, sớm qua đời, Lã Mông chính là niềm hy vọng lớn nhất của Tôn Quyền trong cuộc chiến chống lại Lưu Bị và Tào Tháo.
Thu Kinh Châu, bắt Quan Vũ
Sau trận chiến Xích Bích đại phá quân Tào, liên minh Tôn Quyền – Lưu Bị có dấu hiệu rạn nứt. Lưu Bị cho Quan Vũ trấn thủ ở Kinh Châu, tiếng là mượn đất của Đông Ngô nhưng năm lần bảy lượt thoái thác trả lại. Tôn Quyền giận lắm, vẫn muốn đoạt lại, ngoài mặt thì giao hảo nhưng trong lòng vẫn ngầm nuôi ý khác.
Sau khi lên làm Đại đô đốc, nắm binh quyền cả nước, Lã Mông đem quân đóng giữ ở Lục Khẩu, ngày đêm thao luyện quân mã đợi ngày khởi sự. Đối với Quan Vũ, Lã Mông luôn giữ thái độ hữu hảo, cung kính để vỗ yên, loại bỏ nghi ngờ.
Năm 219, nhân lúc Tào Tháo mới thua trận ở Hán Trung, Quan Vũ cấp tốc khởi binh tiến đánh Phàn Thành. Tướng giữ Phàn Thành là Tào Nhân vốn lắm mưu mẹo, thông hiểu binh pháp, phòng thủ rất cẩn mật, không chút sơ hở. Bởi thế Quan Vũ vây thành lâu ngày nhưng vẫn chưa chiếm được, bất đắc dĩ phải ở lại nhiều ngày trên đất Ngụy.
Trong khi đó ở hậu phương, biến lớn đã xảy ra. Lã Mông biết tin Quan Vũ kéo quân lên đánh Phàn Thành bèn bày diệu kế đánh úp Kinh Châu. Ông cho binh sĩ cải trang thành thương nhân mặc áo trắng, chèo thuyền qua sông, đánh tiếng là dừng ở Kinh Châu thu mua vật phẩm. Trong mỗi thuyền đều mai phục rất nhiều tinh binh.
Khi đem quân lên mạn bắc đánh Phàn Thành, Quan Vũ vốn đã cho lập nhiều đài gác, chốt phòng ngự để đề phòng Đông Ngô tập kích. Tuy nhiên diệu kế của Lã Mông đã vô hiệu hóa hoàn toàn hệ thống phòng thủ này. Quân Ngô dừng thuyền ở các đài gác ven sông, ban đêm bất ngờ tập kích, bắt trói hết lính gác ở đó. Bởi vậy, Quan Vũ không hề hay biết gì, vẫn mải mê giao phong với Tào Nhân ở Phàn Thành. Đây là kế “Bạch y độ giang” (Áo trắng sang đò) nổi tiếng lịch sử.
Quân Ngô tràn vào như thế nước đổ. Hai tướng phòng ngự ở Kinh Châu là Phó Sĩ Nhân và My Phương đều xin hàng. Lã Mông không tốn một binh một tốt liền đoạt lại được Kinh Châu. Quan Vũ hay tin Kinh Châu bị đánh úp, tiến thoái lưỡng nan, bèn phải chạy ra Mạch Thành. Quân sĩ đi theo sợ hãi, hàng Ngô gần hết. Ngày 2/1/220, hai cha con Quan Vũ cuối cùng cũng bị bắt sống. Tôn Quyền ra lệnh chém đầu cả hai.
Dùng kế đẩy lùi 40 vạn quân Tào Tháo
Đầu đông năm 212, Tào Tháo vừa tròn 58 tuổi, thống lĩnh đại quân tiến đánh Đông Ngô một lần nữa, phục thù cho trận thua ở Xích Bích 4 năm trước đó. Lần này Tào Tháo dẫn theo 40 đại tướng và 40 vạn đại quân (khoảng 400 nghìn quân) xuống phía nam tiến đến Nhu Tu Khẩu.
Giang Nam lắm sông ngòi, đại quân của Tào Ngụy muốn đánh Đông Ngô nhất định phải dùng đường thủy. Con đường lý tưởng nhất chính là tập hợp thuỷ quân từ huyện Tiêu, quê nhà Tào Tháo, men qua Hà Nam đi xuống, tiến vào Sào Hồ, tiếp đó lại đi vào cửa sông Nhu Tu, như vậy có thể dễ dàng tiến vào Trường Giang. Nếu thuỷ quân của Táo Tháo chọn con đường này thì nhất định phải đi qua “Nhu Tu Khẩu”.
Sở dĩ gọi là “Nhu Tu Khẩu” bởi vì địa thế đặc biệt của nó, sông Nhu Tu nằm giữa núi Thất Bảo và núi Nhu Tu, như hình nút cổ chai. Nước sông chảy qua đây đột nhiên bị bó thắt lại. Sự chênh lệch về độ cao hai đầu lại khiến cho sức nước chảy xiết, thuyền bè qua lại thường khó khăn, không cẩn thận là bị lật đổ.
Bởi thế, thuyền bè qua Nhu Tu Khẩu không thể dùng sức chèo qua mà phải dựa vào sức người kéo dắt mới có thể đi được. Nhưng cái khó là ở chỗ hai bên bờ sông vách núi dựng đứng, người muốn đi lại cũng không dễ dàng. Lưng chừng núi chỉ có một mỏm đá lớn nhô ra để đứng, gọi là Bối Tiêm Thạch. Thuyền bè qua lại nơi này lấy Bối Tiêm Thạch làm mốc, vượt qua xong mới được thở phào an toàn. Có câu hát rằng: “Thuyền qua Bối Tiêm Thạch, thư nhà báo bình an“.
Tào Tháo khởi 40 vạn đại quân, thuyền nọ nối thuyền kia cùng dắt nhau qua, về lý mà nói thì đi qua Nhu Tu khẩu cũng không có gì quá khó khăn. Nhưng có một việc nằm ngoài dự tính khiến đại quân mắc kẹt mãi ở cửa Nhu Tu này, mấy lần tiến lên không được. Sau này, Gia Cát Lượng cũng viết trong “Hậu xuất sư biểu” rằng: “Tào Tháo 4 lần vượt Sào Hồ bất thành“.
Tào Tháo đã bị một toà thành luỹ cản đường. Tòa thành ấy chính tay Lã Mông dựng nên. Trước đó, khi nghe tin quân Tào phạm vào bờ cõi, các tướng lĩnh Đông Ngô trên dưới đều muốn huyết chiến một phen sống mái với quân địch. Duy chỉ có Lã Mông phản đối, bàn rằng: “Binh khí có lúc sắc bén, có khi cùn nhụt, đánh không thắng cả trăm trận được. Nếu có việc bất ngờ, quân bộ kỵ của địch đuổi gấp, chẳng kịp xuống nước, còn vào thuyền được chăng?“.
Tôn Quyền cho là phải, bèn nghe theo kế của Lã Mông lập một toà thành luỹ chặn đứng đường tiến quân của Tào Tháo. Lã Mông thiết kế một tòa luỹ ở giữa núi Thất Bảo và núi Nhu Tu gọi là luỹ Nhu Tu. Luỹ Nhu Tu được thiết kế theo hình trăng lưỡi liềm để chặn đứng chiến thuyền của quân Tào từ phương bắc xuống.
Quân lính Đông Ngô không cần xuất đầu lộ diện đối mặt với nguy hiểm, chỉ cần núp ở trong thành, chuẩn bị đá ném xuống. Như thế không một chiến thuyền nào của Tào Tháo có thể qua được. Tôn Quyền lại cho chuẩn bị 1 vạn lính bắn trường cung. Đội xạ tiễn ấy có thể hoàn toàn chế ngự được chiến thuyền của Tào Ngụy muốn vượt sông, biến quân Tào thành những con nhím chết.
Quả nhiên, Tào Tháo 3, 4 lần tìm kế vượt qua Nhu Tu Khẩu mà vẫn bất thành, mãi không tìm ra cách phá trận, tiến thoái đều khó. Ngược lại, quân Đông Ngô lại liên tục ra trước doanh trại quân Tào khiêu chiến. Chỉ cần quân Tào vừa xuất trận là chiến thuyền của Đông Ngô lập tức lùi vào khu vực phía trong luỹ Nhu Tu, đồng thời cho quân bên trong dùng tên nhắm vào phía quân Tào mà bắn.
Cả đời chinh chiến trên lưng ngựa khắp thiên hạ nhưng có lẽ Tào Tháo chưa gặp một bài toán nào khó đến như thế. Ông trầm ngâm đưa mắt nhìn đội quân hùng dũng, thiện nghệ của Đông Ngô mà cảm thán nói rằng: “Sinh con phải được như Tôn Trọng Mưu” rồi ngoảnh mặt nói với chư tướng: “Giang Nam e rằng chưa dễ mà bình định được“.
Tuy vậy, kiến trúc sư của đội quân tinh nhuệ ấy lại chính là Lã Mông, người mà Tào Tháo không để ý hoặc cố tình không nhắc tới. Tào Tháo đóng quân ở Nhu Tu Khẩu từ mùa đông cho đến mùa xuân nhưng trước sau vẫn không tài nào phá nổi thành lũy phòng ngự của quân Ngô.
Khi mùa mưa phương nam đến, nước sông Trường Giang không ngừng dâng lên. Quân Tào vốn không quen thủy chiến, đóng quân trên sông lâu ngày vốn đã mỏi mệt, sĩ khí đều tan, sức cùng lực tận.
Chính ngay lúc ấy thì Tào Tháo nhận được một bức thư của Tôn Quyền gửi sang. Trong thư, Tôn Quyền viết: “Nước xuân đang lên, hãy mau chóng lui binh. Ông mà không chết, tại hạ khó lòng yên thân“. Tào Tháo cười mà nói với các tướng rằng: “Tôn Quyền không lừa ta“, bèn hạ lệnh lui binh, quân mã ra về an toàn, quân Ngô không hề truy kích.
Năm 217, sau khi chiếm được Hán Trung, Tào Tháo lên ngôi Ngụy vương, một lần nữa xuất quân phạt Ngô, tiến vào đất Cư Sào (nay nằm ở phía đông bắc huyện Huyền, tỉnh An Huy). Tôn Quyền lại phái Lã Mông làm Đô đốc, đem quân chống Tào ở cửa Nhu Tu. Ông cho cố thủ thành nghiêm ngặt để chống cự, buộc Tào Tháo không đánh nổi phải lui quân. Sau trận này, Lã Mông được thăng lên chức Tả Hộ quân, Hổ Uy tướng quân.
Nhân tài yểu mệnh
Cũng giống như các Đại đô đốc trước đó của Đông Ngô, Lã Mông cũng yểu mệnh, sớm qua đời. Chu Du mất năm 35 tuổi, Lỗ Túc qua đời năm 46 tuổi còn Lã Mông ra đi ở tuổi 42. Ngay sau khi đoạt lại Kinh Châu cho Đông Ngô, Lã Mông bất ngờ đổ bệnh nặng. Tôn Quyền vô cùng lo lắng, cho xây nội điện để Lã Mông nghỉ ngơi, treo thưởng nhiều vàng bạc chiêu mời danh y đến chữa trị.
Chuyện kể rằng, Tôn Quyền rất quan tâm đến bệnh tình của Lã Mông, thường cho người hầu vào quan sát, có khi lại tự mình khoét vách để nhìn. Khi Lã Mông ăn ngủ thảnh thơi thì Tôn Quyền tỏ ra vui mừng. Còn khi bệnh tình Lã Mông nghiêm trọng thì Tôn Quyền lại vô cùng lo lắng. Ông còn cho mời đạo sĩ đến cầu phúc cho Lã Mông.
Nhưng đời người khó tránh tử sinh, Lã Mông bệnh nặng qua đời, để lại một khoảng trống lớn ở Đông Ngô. Trước khi mất, Lã Mông tiến cử Lục Tốn với Tôn Quyền. Quyền y lời, sau này lại cất nhắc Lục Tốn làm Đại đô đốc. Tốn không phụ lòng, lập nhiều công trạng, nổi bật nhất là trận thắng ở Di Lăng, phá tan 70 vạn quân Thục do đích thân Lưu Bị thống suất hòng báo thù cho Quan Vũ.
Sinh thời, những đồ tặng phẩm, vàng bạc, tơ lụa, gấm vóc được ban tặng, Lã Mông đều sai người niêm phong cẩn thận vào kho. Ông dặn người nhà rằng sau khi mình qua đời thì đem trả lại hết cho Tôn Quyền, lễ tang chỉ nên làm đơn giản, không cần khoa trương. Dù là một nhân vật ít được người đời biết đến nhưng Lã Mông chính là bậc chính nhân quân tử, văn võ toàn tài, thao lược hùng tài, có chí khí trùm lấp non sông. Giữa thời Tam Quốc loạn ly, hào kiệt nổi lên như ong, Lã Mông thực là một trang nam tử đầu tròn đội trời, chân vuông đạp đất hết sức đáng trọng vậy.