Con người do có hoạt động giao tiếp xã hội nên luôn có nhu cầu chia sẻ để đạt đến thông hiểu lẫn nhau. Không chỉ đơn thuần là việc trao đổi thông tin, đó còn là sự khoái cảm tinh thần. Do vậy, người ta mới mong tri âm tri kỷ.
Có nhiều người than rằng nhịp sống hiện đại quá gấp gáp khiến cho họ không thể tìm được người hiểu mình. Có người thì bảo đời nay đừng mong tìm được tri âm tri kỷ, cái đó đã thuộc về dĩ vãng.
Vậy thì nhân đó chúng ta hãy cùng tìm hiểu tri kỷ là gì? Có dễ tìm được tri kỷ hay không? Và tìm ở đâu?
Tri kỷ trước hết là một từ Hán Việt. Tri nghĩa là biết. Kỷ tức là bản thân. Tri kỷ nghĩa là hiểu biết về bản thân mình. Mình hiểu về mình thì mình là tri kỷ của mình. Nói vậy là vì hiểu về mình là việc không phải ai cũng làm được. Còn với người khác, ai hiểu biết về con người mình và có sự đồng cảm thì họ là tri kỷ của mình.
Còn tri âm? Tri âm là hiểu được âm nhạc của mình. Tri âm hay đi cùng tri kỷ vì từ đồng cảm với nhau qua tiếng đàn tiếng sáo, câu hò điệu hát mà dẫn đến hiểu nhau sâu sắc.
Những điển tích xưa
Tri âm tri kỷ gắn với tích xưa: Bá Nha – Tử Kỳ và bản nhạc Cao Sơn Lưu Thủy.
Sở Bá Nha (tên là Du Thụy) làm quan Thượng Đại Phu nước Tấn, rất giỏi về chơi đàn Thất Huyền Cầm. Tương truyền, khi ông chơi đàn, cá và ngựa cũng phải lắng nghe.
Một hôm Bá Nha đi sứ nước Sở. Dọc đường lúc đến sông Hán, gặp tiết Trung Thu trăng thanh gió mát, Bá Nha đem đàn ra gẩy. Có người tiều phu là Chung Tử Kỳ tình cờ nghe được. Khi Bá Nha chơi bản “Cao Sơn Lưu Thủy” (một trong mười bản nhạc cổ hay nhất, tên gọi có nghĩa là “Nước chảy non cao”). Bá Nha gảy đàn nghĩ đến núi, thì Chung Tử Kỳ khen: “Tiếng đàn chót vót như núi cao”. Lúc Bá Nha đánh đàn, lòng nghĩ về sông nước, thì Chung Tử Kỳ nói: “Tiếng đàn cuồn cuộn như nước chảỵ”.
Sau khi Chung Tử Kỳ chết, Bá Nha đập vỡ đàn, bảo rằng: “Trong thiên hạ không ai còn được nghe tiếng đàn của ta nữa”.
Tử Kỳ chính là bạn tri âm tri kỷ của Bá Nha vậy. Có thể thấy, tình tri kỷ không phân biệt tuổi tác, đẳng cấp xã hội mà thuần túy là sự giao cảm về tinh thần, hiểu thấu lòng nhau. Vậy gọi là tri kỷ.
Cũng tương tự như vậy, trong bài “Khóc Dương Khuê” cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến có viết:
“Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo;
Có khi từng gác cheo leo,
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang;
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân,
Có khi bàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích, điển phần trước sau”
Họ là hai người bạn sớm tối bên nhau, chia sẻ với nhau từng kỷ niệm lúc đắng cay, khi ngọt bùi, từ chốn núi cao rừng thẳm, nơi sơn cùng thủy tận cũng như nơi lầu hồng gác tía. Hợp nhau từ chuyện đàn hát thơ văn, du lịch đến ẩm thực. Những người ấy phải hiểu nhau lắm, quý mến nhau lắm mới có thể “kính yêu từ trước đến sau”, cho rằng mình gặp được nhau là duyên trời định. Ấy gọi là tri kỷ.
Đến khi cụ Dương Khuê mất đi, cụ Nguyễn Khuyến khóc rằng:
“Làm sao bác vội về ngay,
Nghe tin, tôi bỗng chân tay rụng rời.
Ai chẳng biết chán đời là phải,
Sao vội vàng đã mải lên tiên;
Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa
Giường kia treo những hững hờ,
Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn”.
Rượu kia có cũng như không, còn ai hiểu được rượu ngon với mình mà uống nữa vì “tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu” (uống rượu ngàn chung với người tri kỷ vẫn còn thiếu). Tri kỷ mất rồi, rượu còn gì ngon nữa mà uống? Thơ cũng chẳng buồn làm, làm ra ai hiểu được ý mình đây?
Ngón đàn điêu luyện giờ gảy lên ai là người chia sẻ bình phẩm để cùng nhau thăng hoa lên cảnh giới tinh thần cao tột đỉnh. Bạn tri kỷ mất rồi, giờ mình sống đời đơn độc chẳng ai có thể chia sẻ cuộc sống tinh thần với mình nữa. Còn đâu những đêm nằm cạnh nhau, luận bàn chuyện tâm đắc rồi gác chân lên nhau mà ngủ, cái giường kia không treo lên thì còn để làm gì? Nên cái khóc vì mất tri kỷ là khóc cho người, nhưng cũng khóc cho mình vậy.
Tri kỷ khó tìm, hồng nhan tri kỷ còn khó tìm hơn nữa
Còn khó tìm hơn cả tri kỷ, đó là hồng nhan tri kỷ, đó chính là người khác giới mà tri kỷ với mình. Người với người gặp nhau là duyên phận, nhưng đâu phải ai cũng hiểu được lòng mình. Dẫu vậy, người tri kỷ cùng giới cũng vẫn dễ tìm hơn người tri kỷ khác giới, vì “đàn ông sao Hỏa, đàn bà sao Kim”. Đàn ông và phụ nữ quá khác biệt nhau từ tâm sinh lý cho nên quan niệm cuộc sống khác biệt. Có những điều đàn ông cho là quan trọng thì phụ nữ lại coi là ít quan trọng và ngược lại. Thế nên, tìm được hồng nhan tri kỷ càng khó hơn.
Thế mà, có một người đã tìm được hồng nhan tri kỷ, đó là anh chàng Tiểu Ất Yến Thanh. Mặc cho hoàng đế Tống Huy Tông săn đón chiều chuộng, Lý Sư Sư vẫn chỉ yêu Tiểu Ất Yến Thanh, vì cao hơn cả tình yêu nam nữ, với nàng, Yến Thanh chính là một người tri kỷ. Họ đến với nhau vì sự giao cảm về âm nhạc và tâm hồn hơn là vì sắc dục. Lý Sư Sư thì có ngón đàn điêu luyện, Tiểu Ất Yến Thanh thì là chàng trai tài hoa rất giỏi về sáo trúc. Tiếng sáo tiếng đàn họ hòa hợp nhau thì chính là tâm hồn họ hòa hợp nhau vậy. Đó là một ví dụ về hồng nhan tri kỷ.
Vàng kia vạn lạng còn dễ kiếm, tri kỷ một người thật khó thay
Người tri kỷ có nhiều khi chẳng cần nói, chỉ cần trao nhau một ánh nhìn, là cũng có thể hiểu nhau nghĩ gì rồi, thấy nhau suy tư là biết đối phương nghĩ về điều gì rồi. Vậy là tri kỷ.
Muốn trở thành tri kỷ, thì trước hết phải hiểu nhau. Hiểu nhau rồi, còn cần phải có sự đồng cảm, “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Nghĩa là tôi thích những gì bạn thích, tôi hiểu những gì bạn hiểu, nên tôi biết bạn nghĩ gì vì tôi cũng nghĩ như vậy. Nó rất là tự nhiên.
Muốn hiểu nhau, thì cần phải lắng nghe. Muốn lắng nghe, thì tâm phải đủ tĩnh. Kiên nhẫn nghe nhau nói cho đến hết, rồi suy ngẫm, đặt mình vào vị trí người nói. Rồi mới phản hồi. Tiếc thay, có lúc chưa nói xong đã cãi xong rồi. Khi nghe thì lơ đãng, tâm trí phù động với cả ngàn ý nghĩ, ngàn ham muốn của riêng mình, lại luôn cho mình là đúng, thì hiểu làm sao được nhau nói gì. Tri kỷ không dễ.
Muốn hiểu nhau, thì tâm tĩnh nhưng trí cũng cần sáng. Nếu không chịu suy nghĩ thì không bao giờ có thể hiểu được nhau. Lối sống gấp, sống vội cũng làm người ta xa nhau, khó mà hiểu được nhau. Tâm tình người ta để cả vào câu nói, câu văn đấy, hãy đọc đi mà cảm nhận. Thế may ra mới hiểu được nhau. Nhưng cũng không dễ trong thời đại mà “lướt” mạng xã hội là xu hướng chủ đạo.
Hiểu nhau rồi, cũng phải chia sẻ, đồng cảm được với nhau thì mới gọi là tri kỷ. Có điều xã hội ngày xưa khác. Ngày xưa ai đi học hay làm gì cũng được dạy phải tĩnh tâm, chuyên tâm. Cả xã hội sống trong trạng thái như thế. Đời sống có lẽ cũng đơn giản hơn, tư tưởng thuần khiết hơn, chỉ có tam giáo Thích Nho Lão giữ vai trò dẫn dắt tinh thần con người. Nhịp sống cũng chậm, không gấp gáp vội vã và nhiều ham muốn như bây giờ. Trong bầu không khí tĩnh tại ấy, có lẽ dễ tìm được sự đồng cảm hơn.
Còn bây giờ thì thông tin bùng nổ, ai cũng có thể phát ngôn. Ai cũng có điều tâm đắc với lời của ai đó, lấy đó làm kim chỉ nam cho đời sống của mình. Giới lao động đơn giản có hình mẫu của mình, giới trí thức cũng có điều tâm đắc của riêng mình. Trong núi thông tin khổng lồ ấy, cũng khó mà tìm được nhau để đồng cảm, chia sẻ.
Anh đọc nhiều sách, tôi cũng đọc nhiều sách. Nhưng sách mà anh và tôi đọc là khác nhau, có những tư tưởng khác nhau. Anh thì cho những điều anh đọc là đúng, tôi cũng vậy. Anh hâm mộ Richard Branson, cho là ông ấy nói đúng, phải học theo ông ấy. Tôi lại cho là Elon Musk đúng, hoặc anh khác lại cho Bill Gates mới là hay. Giả dụ vậy.
Hoặc anh thì hứng thú với tư tưởng người Nhật, cho rằng phải làm như họ thì đất nước mình mới khá. Tôi không cho như vậy, tôi nghĩ là phải áp dụng tư tưởng, mô hình của Mỹ mới là đúng, mới phù hợp với đất nước Việt Nam v.v. nói chung là khó mà đồng điệu. “Anh”, “tôi” cũng chỉ là đại từ nhân xưng có tính tỷ dụ.
Hoặc ví dụ khác, có người cho là thú vui tinh thần mới là quý giá. Họ ham thích văn chương, triết lý, văn hóa, lịch sử… những thú vui tinh thần. Người khác thì say sưa với vật dụng, thích xe ô tô đẹp, quần áo hàng hiệu, mỹ phẩm hoặc thích chụp ảnh “tự sướng”. Như vậy là lệch nhau rồi. Tri kỷ không dễ.
Nói về âm nhạc. Anh thì thích Andrea Bocelli, Enrico Caruso, Pavarotti, the Three Tenors… hay những danh ca Opera khác. Anh khác thì lại thích nhạc Rock của Metallica, Bon Jovi, anh khác nữa lại thích giao hưởng, các em trẻ tuổi lại thích nhạc trẻ thời thượng hay K-POP. Thế mà, ai cũng cho gu thẩm mỹ của mình mới là chuẩn mực… tri kỷ thế nào đây?
Chắc là ai cũng thấy tri kỷ trong thời buổi này là khó tìm rồi!
Vậy thì dù mong ước tìm được người tri kỷ là chính đáng, thành công là rất hiếm hoi.
Những người mà có được tri kỷ thực sự thật đáng cảm phục. Vì họ có sự tĩnh tại, họ có sự hiểu biết, họ có tâm tính tốt và họ có sự may mắn. Không may mắn làm sao được khi mà họ tìm được nhau trong cơ hội một phần triệu ấy. May mắn nhưng không phải ngẫu nhiên, vì người với người đến với nhau là duyên phận.
Người ta tìm tri kỷ là để được sống trong niềm hạnh phúc tinh thần, có người hiểu mình, chia sẻ đồng cảm với mình, biết giá trị của mình, công nhận mình, thậm chí có thể hy sinh về nhau. Ước mơ ấy quá đỗi chính đáng nhưng con người ta sống trong xã hội hiện đại, phương tiện giao tiếp quá tiện nghi nhanh chóng nhưng hóa ra về suy nghĩ lại càng cách xa nhau. Thế nên, chữ “tri kỷ” thật là xa xôi.
Nhà thơ Đoàn Thị Lam Luyến có nói một câu: “Dựa vào người khác để tìm hạnh phúc thì mong manh lắm”, chính là ý đó. Hướng ngoại mà cầu thì kết quả tạm bợ và mong manh như thế đấy.
Còn Thi Tiên Lý Bạch thì viết: “Hoàng kim vạn lượng dung dị đắc/Thế thượng tri kỷ tối nan cầu”, nghĩa là: Vạn lượng vàng còn dễ kiếm, chứ tri kỷ thì cực khó tìm.
Dẫu tình đời biến hóa đa đoan, ai cũng có thể có một tri kỷ khi biết trở về với bản tính tiên thiên
Phật nói con người chúng ta còn có sai lầm, còn thấy nhiều giả tướng vì chúng ta còn nhiều chấp trước và quan niệm hậu thiên. Đó là những quan niệm sinh ra khi con người ta lớn lên va chạm với đời sống và tự rút kinh nghiệm. Quan niệm hậu thiên nó không phải là chân lý, không thực sự sáng suốt. Nó chỉ tạm thời đúng hay có giá trị với ai đó, trong một hoàn cảnh cụ thể nào đó chứ không có giá trị lâu dài.
Những nhà tư tưởng hay các vĩ nhân như Martin Luther King, Nelson Mandela, Abraham Lincoln, Thomas Jefferson, Phan Chu Trinh… các nhà khoa học như Einstein, Edison, Newton, đến cả các nhân vật tỷ phú đương đại như Bill Gates, Elon Musk, Warren Buffet, Richard Branson… dù là những nhân vật nổi trội, nhưng họ vẫn chỉ là những con người. Quan niệm của họ có lẽ sâu sắc hơn người thường chúng ta, nhưng vẫn không phải là chân lý tuyệt đối. Đến trăm năm, nghìn năm nữa, có ai còn nhớ tới lời họ nói không? Hoặc nó còn đúng, còn giá trị nữa không?
Con người trí tuệ sâu sắc và uyên bác như đại thi hào Nguyễn Du còn phải thốt lên: “Bất tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”, nghĩa là: “Không biết ba trăm năm lẻ nữa, còn ai nhớ đến Nguyễn Du này không?”. Vì dù là cá nhân kiệt xuất, cụ tự biết được cái hạn chế trong trí tuệ con người của mình. Vì con người là hữu hạn. Nhưng Thần thì khác.
Cho nên, các vị danh nhân ấy bất quá chỉ có thể làm học trò ngoan của những Đại Giác Giả như Đức Jesus, Đức Phật Thích Ca, Đức Lão Tử và các vị Thần khác mà chúng ta có người còn chưa nhìn ra. Những vị Giác Giả này mới là trí huệ thực sự, hiểu biết thực sự vì họ đã đắc Đạo, đã đạt đại ngộ, không phải là cái biết, cái lý luận của phàm nhân. Cho nên cả mấy ngàn năm nay, người ta vẫn nhắc đi nhắc lại lời của họ.
Nhưng có một điều chúng ta có thể ngộ ra được, đó là trong cả biển những suy nghĩ và quan niệm đó, bất cứ ai cũng có một tri kỷ. Vị này nằm ở trong tâm mỗi người. Đó là điều chúng ta giống nhau dù quan niệm, sở thích của chúng ta là hậu thiên, là khác nhau. Vị này thấy hết, biết hết, hiểu hết về chúng ta nhưng lặng im mà chẳng nói gì. Tâm chúng ta càng xáo động thì vị ấy càng im lặng, càng chìm xuống.
Vị ấy đã kiên nhẫn đợi chờ chúng ta bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp, trông thấy chúng ta đi từ trẻ đến già, từ lầm lạc đến khôn ngoan, từ đau khổ đến hạnh phúc, từ mạnh khỏe đến đau yếu. Vị ấy vẫn kiên nhẫn chờ, chờ đến một ngày chúng ta bừng tỉnh, thấy rằng con người bản thân chúng ta nhỏ bé, quan niệm chúng ta sai lầm và đời sống của chúng ta là cõi tạm… để trở về với vị ấy. Khi lòng chúng ta đã lắng lại, tĩnh lại, lúc ấy chúng ta mới nghe được lời minh triết của vị ấy. Vị ấy là vị Phật tại tâm.
Muốn trở về với vị ấy, ta phải gạt bỏ hết các quan niệm hậu thiên, các chấp trước, những dục vọng, những cảm xúc con người…
Muốn trở về với vị ấy, ngoài việc phát tâm tu luyện, ta còn phải có đường lối nguyên tắc chỉ đạo và cách thức thực hiện. Tự chúng ta khó mà làm được.
Vị ấy mới đúng là tri kỷ thật sự của chúng ta.
Văn Bé