Tam quốc Diễn Nghĩa là một trong tứ đại danh tác nổi tiếng của Trung Quốc. Xét về góc độ nghệ thuật đây được đánh giá là một áng văn chương đầy hào hùng với những bút pháp rất sáng tạo trong lối hành văn. Tam Quốc Diễn Nghĩa không chỉ có giá trị thưởng thức mà còn bộc lộ sự tài tình trong văn miêu tả chiến tranh, đắp nặn hình tượng nhân vật và kết cấu từ sử thi một cách sáng tạo, đặc sắc.
La Quán Trung sớm nổi tiếng có tài văn chương, rất giỏi về từ khúc, câu đối, lại viết cả các loại kịch, nhưng thành công nhất là về tiểu thuyết. Ngoài việc là tác giả của cuốn tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa và còn có người cho rằng: La Quán Trung cũng là một người tham gia soạn và chỉnh biên tác phẩm Thủy hử. Cùng với Ngô Thừa Ân, Thi Nại Am, Tào Tuyết Cần,…La Quán Trung là người đóng góp xuất sắc cho trường phái tiểu thuyết lịch sử đời Minh-Thanh.
Thành tựu của La Quán Trung qua tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa chính là tài năng trong thủ pháp nghệ thuật. Ông đã biến tác phẩm trở thành đệ nhất danh tác không chỉ của văn học Trung Quốc mà trải qua thời gian, nó đã vượt qua những kiệt tác viết về chiến tranh của văn học thế giới để trở thành đệ nhất danh tác của văn học nhân loại.
Tam quốc diễn nghĩa sở hữu cốt truyện và hệ thống nhân vật hoành tráng
Một trong những thành công lớn nhất của Tam Quốc Diễn Nghĩa là tính chất quy mô, hoành tráng của cốt truyện và nhân vật.
Bộ tiểu thuyết này có thể chia thành rất nhiều chương hồi. Mỗi chương hồi lại là những câu chuyện độc lập nên đây được coi là một mảnh đất màu mỡ cho các nhà làm phim khai thác để dựng thành phim ảnh.
Với hệ thống nhân vật khổng lồ, Tam Quốc Diễn Nghĩa chứa đựng tới 400 nhân vật, mà mỗi nhân vật lại mang những cá tính điển hình riêng biệt. Mỗi một vị lại mang một vẻ độc đáo khác nhau.
Tam Quốc Diễn Nghĩa lấy bối cảnh vào thời suy vi của nhà Hán khi mà những hoàng đế cuối cùng của nhà Hán bạc nhược, bất tài nên đã quá tin dùng giới hoạn quan mà gạt bỏ những bề tôi trung trực. Triều đình ngày càng thối nát, khiến kinh tế suy sụp và an ninh bất ổn. Đến đời Hán Linh Đế, loạn giặc Khăn Vàng (do Trương Giác, một người đã học được nhiều ma thuật và bùa phép chữa bệnh, cầm đầu) nổ ra và nhanh chóng lan rộng như bão lốc…
Sau khi diệt được loạn “Giặc Khăn Vàng”, triều đình càng rối loạn, đám hoạn quan giết trung thần, uy hiếp vua. Trong số các quan lại có công “hộ giá” cứu vua là Đổng Trác, một thứ sử Tây Lương. Đổng Trác nhân cơ hội này vào cung bảo vệ vua. Sau đó Đổng Trác phế truất Thiếu Đế và lập Trần Lưu Vương lên làm Hoàng đế, còn mình làm Tướng quốc nắm hết quyền triều chính.
Hành vi tàn bạo, lộng quyền của Đổng Trác khiến quan lại vô cùng phẫn nộ, họ hội quân với Viên Thiệu và lập mưu khiến Đổng Trác dời đô từ Lạc Dương về Trường An. Cuối cùng Đổng Trác bị giết bởi “Mỹ nhân kế” của quan Tư đồ Vương Doãn: Lã Bố, một võ tướng tài ba, con nuôi của Đổng Trác đã đâm chết Đổng Trác do cùng giành giật một người con gái đẹp là Điêu Thuyền.
Sau khi Đổng Trác chết, triều đình tức chính quyền trung ương tan rã, các quan lại cát cứ, xưng hùng xưng bá ở khắp nơi: Tôn Kiên lấy được Ngọc Tỷ truyền quốc rồi truyền lại cho con là Tôn Sách hùng cứ ở Giang Đông, phía Bắc là hai anh em Viên Thiệu, Viên Thuật…Ở kinh đô, quyền lực của Tào Tháo ngày một mạnh lên sau một loạt những sự kiện sau đó. Trong chiến dịch quân sự đánh Viên Thiệu, chiến thắng quyết định của Tào Tháo tại trận Quan Độ đã đặt cơ sở cho Tào Tháo củng cố quyền lực tuyệt đối khắp miền bắc Trung Quốc.
Đổng Trác (Ảnh: Youtube)
Cũng trong thời gian này, Lưu Bị đã lập được căn cứ ở Nhữ Nam và tự đem quân đi tấn công Tào Tháo nhưng bị thất bại. Lưu Bị bèn tới Kinh Châu nương nhờ Lưu Biểu là một người anh họ xa, cũng là tôn thất nhà Hán. Tại đó Lưu Bị, sau ba lần đến thăm lều cỏ của Gia Cát Lượng (3), đã vời được Gia Cát Lượng ra làm mưu sĩ, cùng họ Tào và họ Tôn chia ba thiên hạ.
Lưu Biểu mất, để lại Kinh Châu cho hai con trai nhỏ. Sau khi diệt được Viên Thiệu, Tào Tháo lập tức nhòm ngó về phía nam. Ông ta tự đem quân đi chiếm Tân Dã. Lưu Bị được lòng dân chúng thành Tân Dã nên trước viễn cảnh bị xâm chiếm, toàn bộ dân trong thành một lòng xin đi theo Lưu Bị. Lưu Bị đành đưa dân Tân Dã về thành Tương Dương của người con thứ của Lưu Biểu, tại đây Lưu Bị bị từ chối không cho vào thành. Không còn cách nào khác ông phải tiếp tục nam tiến xuống Giang Hạ là thành của Lưu Kỳ người con trưởng của Lưu Biểu. Ở Giang Hạ, Lưu Bị cuối cùng cũng tạm có được một chỗ đặt chân để chống lại cuộc tấn công dữ dội của Tào Tháo.
Còn ở phía tây nam, Tôn Quyền vừa mới lên nắm quyền sau cái chết của người anh là Tôn Sách. Cả Tào Tháo lẫn Lưu Bị đều muốn liên kết với Tôn Quyền để “chia đôi tiên hạ”. Tuy nhiên, Gia Cát Lượng tự mình đến quận Sài Tang và thuyết được Tôn Quyền hợp tác với Lưu Bị. Liên minh này đã dẫn đến thất bại thảm hại nhất của Tào Tháo tại trận Xích Bích.
Với ý định loại trừ Lưu Bị, người mà Tôn Quyền cho là một mối đe dọa tiềm tàng, Tôn Quyền bày mưu gả em gái cho Lưu Bị. Sau đó, Lưu Bị mắc mưu sang Sài Tang để làm lễ cưới. Tuy nhiên, Tôn Quyền rất nghe lời mẹ Ngô Quốc Thái Phu Nhân; bà này rất quý Lưu Bị và không cho ai hãm hại Lưu Bị. Cũng do mưu lược của Gia Cát Lượng mà Lưu Bị cuối cùng đã thoát được quay về Giang Hạ cùng với người vợ mới.
Tình trạng giằng co giữa ba thế lực vẫn bế tắc cho đến khi Tào Tháo chết vào năm 219. Năm sau đó, con thứ của Tào Tháo là Tào Phi ép phế Hán Hiến Đế và lập ra nhà Ngụy. Đáp lại, Lưu Bị tự xưng đế Thục Hán (để chứng tỏ vẫn mang dòng máu quý tộc nhà Hán nhưng đóng đô tại Thành Đô – đất Thục).
Lúc này, Tôn Quyền lại ngả về phía Ngụy. Ông chịu để Tào Phi phong vương nước Ngô. Tôn Quyền làm việc này nhằm tập trung lực lượng chống Lưu Bị do Lưu Bị khởi binh đánh Ngô để trả thù cho Quan Vũ bị Tôn Quyền giết chết.
Một loạt những sai lầm mang tính chiến lược do hành động nóng vội của Lưu Bị đã dẫn đến thất bại của quân Thục Hán trong trận Hào Đình. Tuy nhiên, Lục Tốn, quân sư phía Ngô đã từng chĩa mũi nhọn tấn công về phía Thục, đã ngưng không tiếp tục dấn sâu về phía tây. Vì tin vào đòn trừng phạt của Lục Tốn, Tào Phi phát động một cuộc xâm lược vào nước Ngô vì cho rằng như vậy quân Ngô vẫn còn ở ngoài nước. Cuộc tấn công đã bị đè bẹp bởi sự kháng cự quyết liệt của quân Ngô cùng với bệnh dịch bùng phát phía bên quân Ngụy.
Trong lúc đó tại nước Thục, Lưu Bị bị bệnh chết và để lại con trai Lưu Thiện còn nhỏ dại, phó thác cho Gia Cát Lượng chăm sóc. Nắm bắt cơ hội này, Tào Phi gắng mua chuộc một số lực lượng, trong đó có Tôn Quyền và các bộ tộc thiểu số để tấn công nước Thục. Một sứ giả của Thục thuyết được Tôn Quyền lui quân, nhưng Gia Cát Lượng vẫn phải lo xử lý quân của các bộ tộc thiểu số.
Một trong những mưu lược tài ba cuối cùng của Gia Cát Lượng là tiến hành chiến dịch thu phục Mạnh Hoạch, thủ lĩnh bộ tộc người Man. Gia Cát Lượng đã bảy lần bắt sống Mạnh Hoạch, lần nào cũng cho thả ra nguyên vẹn. Mạnh Hoạch vì cảm động bởi mưu trí và lòng nhân từ của Gia Cát Lượng nên đã thề mãi mãi gắn bó với nhà Thục.
Trong lúc này, Tào Phi cũng lâm bệnh mà chết. Gia Cát Lượng liền nhìn về phía bắc. Tuy thế, ông không còn sống được bao lâu nữa. Chiến thắng đáng kể cuối cùng của ông chống lại quân Ngụy có lẽ là chiêu hàng được Khương Duy về phía mình. Khương Duy trước đó là một tướng bên Ngụy, có tài năng quân sự. Khương Duy tiếp tục tiến hành chiến dịch của Gia Cát Lượng chống lại Tào Ngụy tới một kết cục khá cay đắng, ngay cả sau khi Lưu Thiện đầu hàng. Khương Duy bày mưu kích động xung đột giữa hai tướng lớn phía Ngụy. Kế sách này đã tiến rất sát đến thành công. Thật không may, Khương Duy đã bộc phát bệnh hiểm nghèo ngay giữa trận đánh cuối cùng. Khương Duy liền dùng kiếm tự vẫn, đánh dấu kháng cự cuối cùng của nhà Thục Hán.
Cuộc chiến kéo dài nhiều năm giữa Ngụy và Thục thì phía Ngụy liên tục đổi ngôi. Nhà họ Tào ngày một yếu thế. Tới Tào Hoán, cháu nội Tư Mã Ý là Tư Mã Viêm bắt Tào Hoán nhường ngôi (giống như Tào Phi đã từng ép Hán Hiến Đế) và lập ra triều đình mới của nhà Tấn, tức là Tấn Vũ Đế, vào năm 265.
Vua cuối cùng của Ngô là Tôn Hạo, đến năm 280 bị Tấn Vũ Đế chinh phục. Cả ba vua cuối cùng của ba nước là Tào Hoán (Nước Ngụy), Lưu Thiện (Nước Thục) và Tôn Hạo (Nước Ngô), được sống cho đến tận cuối đời. Và thế là thời đại Tam Quốc cuối cùng cũng chấm dứt sau gần một thế kỷ xung đột dữ dội.
La Quán Trung thể hiện bút pháp nghệ thuật kể chuyện rất hấp dẫn, li kì. Dưới ngòi bút kì tài, ông đã mở ra những cảnh tượng về các cuộc giao tranh khác nhau liên hồi, thiên biến vạn hóa mà không bị trùng lặp, minh chứng cho tính phức tạp và đa dạng của mỗi trận chiến khiến mỗi chương hồi đều mang theo sự hấp dẫn lôi cuốn mãnh liệt.
Mỗi lần tả một trận giao chiến, ông đều giới thiệu tỉ mỉ tính cách của chủ tướng, tài năng và bản lĩnh của từng vị.
Mặt khác La Quán Trung lại thể hiện tài năng chiến thuật của mình khi ông mô tả cách bố trí và phối hợp binh lực, đánh giá tương quan lực lượng giữa các bên. Binh pháp vận dụng uyển chuyển linh hoạt, chiến thuật và diễn biến trận rất logic.
Trận Xích Bích dữ dội, ác liệt và đầy kịch tính là ví dụ tiêu biểu nhất chứng minh cho tài năng nghệ thuật miêu tả chiến tranh của La Quán Trung. Người đọc bị lôi cuốn, hấp dẫn bởi từng trang truyện, nhiều trang truyện mô tả cảnh chiến trận ác liệt và hoành tráng, đậm chất sử thi.
Hết phần 1. Mời độc giả đón đọc phần 2.
Tịnh Tâm