Tổ khúc giao hưởng Scheherazade của Rimsky Korsakov là một câu chuyện bằng âm nhạc kể về “người kể chuyện vĩ đại nhất trong lịch sử” – nàng Scheherazade và những câu chuyện cổ tích đầy lôi cuốn của nàng.
Ở lĩnh vực sáng tác cho dàn nhạc, mỗi nhà soạn nhạc đều có sở trường và sở đoản của mình. Một trong những sở trường của nhà soạn nhạc Nga Nikolai Rimsky-Korsakov (1844 – 1908) là hòa âm giàu màu sắc và vô cùng sáng tạo.
Người đồng hương Tchaikovsky (1840 – 1893) đã từng viết thư gửi Rimsky-Korsakov với những lời lẽ chân thành: “Trong âm nhạc, tôi chỉ là một thợ thủ công còn anh sẽ là một nghệ sĩ với nghĩa đầy đủ nhất của từ này.” Những tổng phổ màu sắc rực rỡ của không ít nhà soạn nhạc nổi tiếng thế giới về sau một phần nào đó cũng chịu ảnh hưởng từ Rimsky-Korsakov.
Và trong vô số câu chuyện được các nhà soạn nhạc thêu dệt bằng âm nhạc từ xưa đến nay, tổ khúc giao hưởng Scheherazade của Rimsky-Korsakov thật sự là một báu vật. Đây là một câu chuyện bằng âm nhạc kể về “người kể chuyện vĩ đại nhất trong lịch sử” – nàng Scheherazade và những câu chuyện cổ tích đầy lôi cuốn của nàng.
Rimsky-Korsakov soạn tổ khúc giao hưởng Scheherazade Op. 35 vào mùa hè năm 1888, lấy cảm hứng từ cuốn sách Ngàn lẻ một đêm. Tự bản thân những câu chuyện trong Những đêm Arab (tên gọi khác của Ngàn lẻ một đêm) đã được truyền miệng ở thế giới Arab từ nhiều thế kỉ trước khi Anotine Galland giới thiệu với châu Âu.
12 tập Ngàn lẻ một đêm, dưới hình thức bản dịch sang tiếng Pháp của Anotine Galland, được xuất bản lần đầu từ năm 1704 đến năm 1717. Sợi chỉ xuyên suốt những câu chuyện trong đó là câu chuyện về hoàng hậu Scheherazade, người đã chinh phục được đức vua Shahryar bằng tài kể chuyện của mình.
Sau khi bị một người vợ lừa dối, đức vua Shahryar quyết định mỗi ngày sẽ cưới một người vợ mới rồi cho hành hình ngay sáng hôm sau. Nàng Scheherazade đã cứu được mình và những cô gái trẻ tiếp theo khỏi số phận nghiệt ngã này.
Cách thức của Scheherazade là kể cho đức vua nghe những câu chuyện và luôn kết thúc mỗi đêm ở những đoạn hồi hộp nhất. Đức vua không thể ra lệnh hành hình nàng vào sáng hôm sau vì rất tò mò muốn biết phần kết câu chuyện. Sau 1001 đêm, đức vua đã mủi lòng và bãi bỏ quyết định trước đây.
Scheherazade của Rimsky-Korsakov bộc lộ rõ kĩ năng biến đổi màu sắc dàn nhạc, sử dụng dàn nhạc kiểu Brahms chuẩn mực có bổ sung thêm piccolo, harp và một số nhạc cũ gõ. Và mặc dù đề tài được dựa trên những câu chuyện Arab, tác phẩm vẫn mang đậm phong cách Nga ở tính đa cảm và hương vị âm thanh phương Đông với 4 chương nhạc :
Chương I – Biển và con tầu của thủy thủ Sinbad có hai chủ đề đối nghịch. Mở đầu là những hợp âm rền vang của bộ đồng – đại diện cho đức vua Shahryar cứng rắn và uy nghiêm. Tiếp theo là giai điệu uốn lượn của đàn violon độc tấu được hòa âm bộ gỗ mào đầu – đại diện cho nàng Scheherazade đang đan dệt những câu chuyện của mình.
Rồi hai chủ đề trên lùi xa, nhường chỗ cho một giai điệu (ở nhịp barcarolle) nhấp nhô như sóng biển. Thi thoảng những âm thanh từ bộ đồng dội lên mô tả hình ảnh bão tố trên biển cả và con tầu vỡ tan. Những đoạn chen (interlude) như gợi nhắc sự việc Sinbad và thủy thủ đoàn trú ẩn trên đảo. Chương nhạc kết thúc với hình ảnh gió yên biển lặng.
Chương II – Câu chuyện về hoàng tử Kalender kể về một hoàng tử cải trang thành ăn mày để kiếm tìm sự thông thái. Sau lời dẫn của nàng Scheherazade do violon trình bày, chủ đề về nỗi sầu muộn của chàng hoàng tử được các nhạc cụ gỗ solo thể hiện. Rồi dàn dây tham gia vào, hối thúc hơn khi hoàng tử bắt đầu hành trình.
Rimsky-Korsakov gợi ý rằng “người nghe có thể thấy một cuộc đấu tranh” khi một biến thể hùng dũng của chủ đề đức vua Hồi gia nhập vào, vây quanh là những dao động bồn chồn của dàn dây. Ở đoạn tiếp theo, hòa âm kèn gỗ dập dờn và đàn dây bật ngón (pizzicato) gợi nhắc “con chim khổng lồ trên hành trình của Sinbad”.
Chương III – Hoàng tử và công chúa, với những giai điệu và hòa âm biến ảo, sẽ dẫn thính giả tới thăm một cung điện phương Đông lộng lẫy.
Chương IV – Ngày hội ở Baghdad. Biển. Tầu lại vỡ tan vì va vào đá và được các chiến binh cứu vớt. Kết thúc: như tiêu đề pha trộn của chương nhạc đã gợi ra, tác phẩm kết thúc bằng việc mở rộng những cảm xúc phức tạp của chương II, khi Sinbad quay trở về từ cuộc hành trình nhiều năm dòng. Kết thúc tuyệt diệu nhất là dành cho nàng Scheherazade.
Với Rimsky-Korsakov, những tiêu đề chương nhạc trên chỉ có ý “hướng dẫn qua loa cho sự tưởng tượng của thính giả trên con đường du hành tưởng tượng của chính tôi.” Tuy nhiên về sau ông vẫn hối tiếc về việc đã đặt những tiêu đề chương nhạc mang tính miêu tả như vậy. Lẽ ra ông chỉ nên đặt tiêu đề cho các chương nhạc là “Prelude”, “Ballade”, “Adagio” và “Finale” để tránh những gợi nhắc như kiểu âm nhạc chương trình mà Berlioz đã thực hiện với Symphonie Fantastique.
Ông nhấn mạnh rằng những chủ đề của mình chỉ là chất liệu thuần túy cho việc phát triển âm nhạc tự do, đan kết và thống nhất các chương nhạc. Chúng “xuất hiện mỗi khi nhân vật xuất hiện dưới những tâm trạng khác nhau, những motif và chủ đề giống thế tương ứng với mỗi lần, mỗi hình ảnh, mỗi hành động”.
Câu hỏi “Nhà soạn nhạc định miêu tả gì?” không quan trọng bằng “âm nhạc của tác phẩm gợi cho thính giả điều gì?”. Vì thế bạn cứ quên đi những đề dẫn, để trí tưởng tượng của mình thỏa sức bay bổng khi thưởng thức tổ khúc giao hưởng tuyệt diệu này.
Mời quý vị thưởng thức câu chuyện 1001 đêm của nàng Scheherazade và 3 nhạc phẩm xuất sắc nhất khác của Rimsky-Korsakov là Capriccio Espagnol, The Flight of the Bumble Bee và Russian Easter Festival Overture, Op.36
The Best of Rimsky-Korsakov:
Thứ tự các nhạc phẩm như sau:
Scheherazade:
0:00 The Sea and Sinbad’s Ship
9:59 The Story of the Kalander Prince
22:52 The Young Prince and the Young Princess
33:31 Festival at Baghdad – The Sea – Shipwreck
Capriccio Espagnol:
46:36 Alborada – Vivo e strepitoso
47:47 Variazioni: Andante con moto
52:34 Alborada. Vivo e strepitoso (II)
53:45 Scena e Canto Gitano: Allegretto
55:20 Fandango Asturiano
1:01:22 The Flight of the Bumble Bee
1:02:45 Russian Easter Festival Overture, Op.36
Có thể nói âm nhạc của Korsakov là âm nhạc của thiên tài, chứa đựng tình yêu to lớn và tinh thần vĩ đại, với cấu trúc tương phản mạnh mẽ trong sự lãng mạn tuyệt vời. Âm nhạc của ông sống động như những bộ phim điện ảnh lôi cuốn, kịch tính, làm sống dậy những giá trị cao đẹp mà Nghìn lẻ một đêm và những tác phẩm khác muốn miêu tả…
Ngọc Anh- Kim Cương