Lời tòa soạn: Các dân tộc Á Đông có một nền văn minh vô cùng xán lạn. Lịch sử Á Đông nói chung, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam, rất hào hùng, tràn đầy khí chất. Lịch sử 5000 năm văn minh, văn hoá của Á Đông là cả một kho tàng vô giá cho hậu thế. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những quan niệm mới có phần thiên kiến, lệch lạc, lịch sử ấy đã bị cải biên và ngụy tạo nhiều. Với mong muốn phục hưng lại nền văn minh vĩ đại cũng như những truyền thống đạo đức quý báu của người Á Đông, chúng tôi tiến hành loạt bài về lịch sử Việt Nam, Trung Hoa… gửi đến quý độc giả, ngõ hầu phá giải được những quan niệm sai lệch hiện nay.

Lại nói, gần hai năm đã qua, Tần vương đã quên mất Trương Lộc (Phạm Thư). Sau khi đọc bức thư xong, Tần vương quyết định triệu kiến Trương Lộc…

Trương Lộc đến một nơi gọi là Ly cung, ông ở đó chờ đợi. Lúc này xe ngựa của Tần vương đã đến, binh sĩ Tần vương hét lớn bảo ông né ra, ông không tránh mà đứng hiên ngang lẫm liệt.

Ông nói: “Vì sao phải tránh? Ai đang tới vậy?”. Một tên thị vệ nói: “Tần vương đã đến rồi”. Trương Lộc cố ý nói: “Nước Tần lẽ nào có vua? Ta chỉ nghe nói nước Tần có Tướng quốc và Thái hậu thôi, không nghe nói có vua”.

Đoạn lời này bị Tần vương nghe thấy, Tần vương khi đó không giận, ông biết Phạm Thư nói lời như vậy khẳng định là có nguyên nhân. Ông bèn thỉnh Phạm Thư đến cung điện của mình, quỳ lâu thỉnh giáo.

Chúng ta biết rằng người xưa không có ghế đẩu hay băng ghế dài, những ghế này là sau thời Tống mới có. Ông quỳ trên đất hỏi Phạm Thư: “Ai da, gặp ông quả thật không dễ. Ông có điều gì chỉ bảo ta chăng?”.

Phạm Thư nói: “Dạ dạ”, ý là ‘được được’, đây là hư từ. Tần vương cứ chờ cứ chờ, Phạm Thư không nói lời nào.

Sau đó Tần vương lại hỏi: “Tiên sinh có thể chỉ dạy quả nhân không? Tiên sinh rốt cuộc muốn nói điều gì với ta?”. Phạm Thư chỉ nói ‘dạ dạ’ như trước, không nói gì thêm.

Sau đó Tần vương lại hỏi lần thứ ba, Phạm Thư cũng chỉ ‘dạ dạ’.

Con người Phạm Thư này rất hiểu tâm lý người ta, bởi vì khi đó ông đã nói một câu rất có hàm ý: “Lẽ nào nước Tần còn có quốc vương? Tôi chỉ nghe nói có Thái hậu và Tướng quốc”, hàm ý đằng sau câu này rất kích thích tâm hiếu kỳ của Tần vương. Nhưng Phạm Thư khi đó có rất nhiều câu không thể nói ra, bởi vì thân phận của Phạm Thư khi đó là khách trọ quê người, là lưu lạc đến nơi này, sống ở nơi không có người thân thích, trước giờ chưa gặp cũng như chưa đàm luận với Tần vương. Hai bên vẫn chưa có sự tin tưởng lẫn nhau, mà điều Phạm Thư nói đến lại liên quan đến người cậu của Tần vương – Tướng quốc Nguỵ Nhiễm.

Do đó Phạm Thư phải vô cùng cẩn thận, ông dùng cách trả lời ‘dạ dạ’ chứ không nói thêm. Ông đang đợi Tần vương hỏi ông vì sao ông không nói.

Tần vương sau này mới hỏi ông: “Tiên sinh lẽ nào cảm thấy con người ta quá ngu muội ngốc nghếch, không đủ để tiếp nhận dạy bảo của ngài?”.

Phạm Thư nói: “Thần không dám. Năm xưa Chu Văn Vương ở Vị Thuỷ mà gặp được Khương Tử Nha, chỉ đàm luận vài câu đã bái Khương Tử Nha làm thầy, sau này thành tựu công danh sự nghiệp, diệt được Trụ Vương, kiến lập nên 800 năm nhà Chu. Mà Tỷ Can là chú của Trụ Vương, khi ông can gián Trụ Vương, Trụ Vương không những không nghe mà còn giết Tỷ Can, moi quả tim ông ấy ra”.

Câu này Phạm Thư nói với Tần vương có ý nghĩa là: Những lời này của tôi không có quan hệ gì với hai người chúng ta; có người không phải là thân thích, như Chu Văn Vương tiếp kiến Khương Tử Nha, chỉ đôi câu của Khương Thượng là đủ để Văn Vương bái làm thầy, thành tựu bá nghiệp. Còn như Tỷ Can là chú của Trụ Vương, nhưng ông nói gì Trụ Vương cũng không nghe, tuy rằng là thân thích nhưng không phải cái gì cũng nghe. Giống như con người tôi đây, là khách trọ quê người, sống nơi không người thân thích, mà lời nói ra lại có quan hệ đến tình ruột thịt của đại vương, cho nên tôi không dám sơ suất.

Phạm Thư nói: “Nếu lời tôi nói mà đại vương có thể dùng, có thể khiến nước Tần giàu mạnh, thì tôi chết cũng không đáng tiếc. Tôi chỉ sợ lời tôi nói, đại vương không những không dung nạp, lại còn đem giết tôi đi, như thế những biện sĩ (thuyết khách) và mưu sĩ trong thiên hạ vì điều này mà giẫm chân tại chỗ không thể tiến tiếp, như thế nước Tần thật sự gặp nguy”.

Những lời của Phạm Thư đã làm xúc động Tần vương. Tần vương nói với Phạm Thư: “Dù ngươi giảng thế nào, dù đụng chạm đến Thái hậu, mẫu thân ta, thậm chí đụng chạm đến cậu ta, nếu những lời ấy là trực ngôn, ta sẽ không trị tội ngươi”.

Lúc này Phạm Thư mới bắt đầu hiến kế cho Tần vương. Việc này là sự việc rất khó rất khó, không phải nói ra chủ ý là khó, mà là lấy chủ ý trình lên Tần vương, thuyết phục Tần vương nghe chủ ý của ông, đây mới là điều vô cùng vô cùng khó. Phạm Thư thông qua một loạt phương thức mới nhận được sự tín nhiệm của Tần vương.

Ông nói với Tần vương rằng: “Thần nghe nói hiện tại nước Tần muốn xuất binh tấn công vùng đất Cương Thọ, đây là một sai lầm vô cùng lớn, thần kể một câu chuyện ngài sẽ minh bạch thôi. Năm xưa nước Nguỵ tấn công nước Trung Sơn, tuy rằng công hạ được Trung Sơn, nhưng nước Triệu lại ngăn cách Nguỵ và Trung Sơn, do đó không cách nào quản lý được Trung Sơn. Rất nhanh sau đó Trung Sơn phục quốc”.

Phạm Thư nói thêm: “Nước Tần hiện tại tác chiến tứ phương. Hôm nay đánh Sở, ngày mai đánh Tề, hôm kia đi đánh Nguỵ. Chúng ta tương đương với việc thù địch bốn phương. Điều này đối với Tần không có gì là tốt”. Phạm Thư có nói một câu, trong “Sử ký” có ghi lại như sau: “Đại vương chi bằng viễn giao mà cận công, được một thốn đất là thốn đất của đại vương, được một xích đất là một xích đất của đại vương. Hôm nay sẽ nới lỏng nước xa, sau sẽ tấn công, chẳng phải là lấy dần thiên hạ ư”.

Ý tứ rõ hơn là: Ngài chi bằng dùng biện pháp ‘viễn giao cận công’, giống như tằm ăn dâu vậy. Ngài ăn một thốn chính là một thốn đất của ngài, ăn một xích là một xích đất của ngài. Đối với nước gần như Hàn – Nguỵ, ngài phải tấn công bọn họ. Đối với nước xa như Tề – Sở, chúng ta nên kí kết hiệp ước đồng minh.

Những lời này của Phạm Thư khiến Tần vương vỗ tay tán thưởng, ông lập tức bái Phạm Thư làm Khách khanh. Từ đó trở đi, Tần vương sủng ái mến mộ Phạm Thư càng ngày càng sâu dày. Có quốc gia đại sự lúc nửa đêm, ông thường đến hỏi Phạm Thư, xin ông cho kế sách, Phạm Thư ‘bảo sao ông nghe vậy’ (1).

Sách lược ‘viễn giao cận công’ được đề xuất vào năm 270 TCN. Năm 266 TCN, mối quan hệ giữa Phạm Thư và Tần vương đã là thân mật không gián cách.

Có một hôm Phạm Thư nói với Tần vương: “Tuy rằng đại vương tín nhiệm thần như vậy, nhưng có một sự tình mà thần chưa nói với đại vương. Bởi vì nó quá nguy hiểm, cho nên thần đang đợi thời cơ. Nếu sự việc này không được giải quyết, sự an toàn của nước Tần sẽ không đảm bảo được”. Tần vương hỏi rốt cuộc đó là chuyện gì.

Phạm Thư nói: “Khi thần ở nước Tề, chỉ biết nước Tề có Mạnh Thường Quân, không biết có Tề vương. Tại nước Tần, thần chỉ nghe nói có Thái hậu, còn có Tướng quốc Nhương hầu Nguỵ Nhiễm, nghe nói có Hoa Dương Quân, Cao Lăng Quân, Kinh Dương Quân, chứ không nghe nói có Tần vương. Đây là nói rằng nền chính trị của nước Tần bị những đại thần này phân chia rồi lấy đi quá nhiều, quyền bính của đại vương còn quá ít.

Vương của quốc gia là gì? Nắm quyền sinh sát gọi là vương. Mà hiện nay Nhương hầu và Thái hậu nắm uy thế của nước Tần, xuất binh thì chư hầu sợ, mà giải giáp binh thì chư hầu mừng. Giáo huấn của lịch sử không thể không tiếp thu. Năm đó Thôi Trữ nước Tề vì quyền lực quá lớn mà giết Tề Trang Công. Lý Đoái với quyền lực quá lớn ở nước Triệu đã giết quốc vương nước Triệu và Thái thượng hoàng Triệu vương phụ. Hiện tại Nhương hầu và Thái hậu, họ đặt tai mắt bên cạnh đại vương. Thần thấy đại vương một mình đơn độc ở vương triều đã không chỉ một ngày, thần rất sợ sau này người thay đại vương trị vì thiên hạ không phải là con cháu ngài”.

Lúc đó Tần vương sợ đến kinh người, Tần vương đã làm vua 41 năm, ông biết rõ quyền lực của mình bị phân tán rất gay gắt, nhưng lần này khi Phạm Thư đề cập thì không những là vấn đề quyền lực của bản thân ông, mà còn là vấn đề kế thừa quyền lực sau này. Cho nên lần nhắc nhở này đã làm ông cảnh tỉnh, ông bèn hỏi Phạm Thư nên làm thế nào?

Lời bạch: Năm 270 TCN, Phạm Thư cuối cùng cũng có cơ hội gặp được Tần vương, ông đã đề xuất đại kế nhất thống thiên hạ, đồng thời thuyết phục Tần vương giải trừ quyền lực của Thái hậu, Tướng quốc Nguỵ Nhiễm, Kinh Dương Vương, Cao Lăng Vương, Hoa Dương Vương để Tần vương thực sự nắm quyền lực tối cao.

Tần vương cho rằng chỉ dựa vào vũ lực để bành trướng tương đương với việc thù địch bốn phương, là sự bội công bán (bỏ sức gấp đôi, mà thành quả có một nửa), mà điều Phạm Thư đề xuất là thông qua sách lược và phương thức ngoại giao để đạt được thắng lợi ngắn nhất, khái quát chính là bốn chữ: “Viễn giao cận công”. Với bốn chữ này, nước Hàn và nước Nguỵ là đối tượng tấn công đầu tiên của nước Tần.

Khi Phạm Thư làm Ứng Hầu, Vương Kê – người khi ấy đã đưa Phạm Thư đến Tần, địa vị của ông khi đó vẫn chưa được thăng tiến. Còn Trịnh An Bình – người đã cứu Phạm Thư một mạng, ông sau khi đến Tần vẫn chưa có nơi tốt để nương tựa. Phạm Thư sau khi làm Tướng quốc và Ứng Hầu, ông nói về tình huống những người đó với Tần vương. Tần vương nghe xong, ông cho Vương Kê nhậm chức Thái thú Hà Đông, cho Trịnh An Bình nhậm chức Tướng quân. Đây là sự báo ân của Phạm Thư.

Phạm Thư cũng báo thù. Ông có hai kẻ thù, một là Trung đại phu Tu Giả, người đã sàm ngôn gièm pha ông; người thứ hai là Nguỵ Tề, người đã đánh ông thập tử nhất sinh. Phạm Thư có cơ hội báo thù không? Cơ hội nói đến liền đến. Nước Tần khi đó đã phát sinh vài trận chiến với nước Nguỵ, đồng thời chiếm lĩnh được một số thành trì của Nguỵ. Sau đó, Nguỵ Chiêu Vương mất, con trai ông là Nguỵ An Ly Vương kế vị.

Nguỵ An Ly Vương từng nghe nói Tướng quốc nước Tần là Trương Lộc có kế hoạch muốn tấn công nước Nguỵ, hơn nữa đã đánh được vài trận rồi, khi đó ông cảm thấy rất lo lắng. Ông biết Trương Lộc là người nước Nguỵ, cũng có tình cảm hương hoả với quê hương. Thế là ông phái Trung đại phu Tu Giả đi sứ nước Tần, với hy vọng từng bước từng bước tiếp cận Trương Lộc, để hy vọng Trương Lộc cản trở Tần vương tạm thời không tấn công nước Nguỵ.

Tu Giả đến nước Tần. Phạm Thư thấy kẻ thù của mình đã đến rồi. Đây là cơ hội báo thù, nhưng ông hành sự rất có ý tứ, ông không lập tức bắt Tu Giả để lên án kịch liệt, hay đánh một trận, hoặc giả giết đi cho bõ tức.

Phạm Thư thay một bộ y phục thô lậu bần khổ, lặng lẽ đến dịch quán để nhìn Tu Giả. Tu Giả nhìn Phạm Thư bỗng thất kinh, vì ông cho rằng Phạm Thư đã bị đánh chết rồi, lẽ nào lại sống được…

Tu Giả hỏi: “Phạm Thúc, lâu ngày không gặp”. Tự của Phạm Thư là Thúc. Ý tứ câu trên là Phạm Thúc ông vẫn khoẻ từ khi chúng ta gặp nhau lần cuối chứ. Phạm Thư đáp: “Ngày đó sau khi tôi bị ném ra ngoại thành, có một thương nhân đến nghe thấy tiếng của tôi, ông ấy đã cứu mạng tôi. Ông ấy bèn mang tôi đến nước Tần”.

Tu Giả biết Phạm Thư là người rất có tài ăn nói bèn hỏi: “Phạm Thư, nghe nói ông muốn ở lại Tần để du thuyết các nước chư hầu, có được phú quý gì không?”. Phạm Thư nói: “Không có. Giống như con người tôi đây, vốn dĩ dựa vào miệng lưỡi sắc bén, kết quả không những không thể bảo hộ bản thân, mà còn chiêu mời đại hoạ sát thân. Từ đó trở đi tôi làm sao dựa vào khẩu tài để sống? Hiện tại tôi làm thuê cho kẻ khác, gắng gượng tạm sống qua ngày”.

Tu Giả lại hỏi: “Hiện tại ông ở nước Tần có hảo bằng hữu nào, có biết được người nào chức vị cao không? Chủ nhân của ông là người như thế nào?”. Phạm Thư nói: “Chủ nhân tôi có tình bằng hữu rất tốt với Tướng quốc nước Tần”.

Tu Giả nghe vậy bèn phấn chấn lên, ông đang muốn yết kiến Tướng quốc. Ông hỏi Phạm Thư: “Ông có thể thỉnh chủ nhân của ông giúp tôi một chút được không? Tiến cử tôi để gặp Tướng quốc nước Tần?”. Phạm Thư nói: “Tướng quốc bình thường rất bận, nhưng may là hôm nay có thời gian. Nếu ông muốn yết kiến Tướng quốc, hôm nay đi là thích hợp”.

Kỳ thực mọi người để ý sẽ thấy điều này, trong câu nói trên có chút lộ liễu, bởi vì Phạm Thư làm sao biết Tướng quốc có thời gian? Nhưng Tu Giả khi đó cũng không hoài nghi.

Số phận của Trung đại phu Tu Giả như thế nào? Liệu ông có bình an vô sự khi trở về Nguỵ? Kính mời quý độc giả đón xem phần tiếp theo.

Chú thích:

(1) Nguyên gốc là Ngôn thính kế tùng – 言聽計從: nghe lời nói, làm theo kế, bảo sao nghe vậy.

Theo Epoch Times
Mạn Vũ biên dịch