Quay ngược dòng lịch sử, Đức, Nhật Bản và Hàn Quốc đều từng là những quốc gia kiệt quệ và đổ nát sau chiến tranh. Thế nhưng, họ đã từng bước khôi phục, phát triển để rồi có những bước nhảy vọt khiến cả thế giới phải nghiêng mình khâm phục. Vậy điều gì đã khiến ba đất nước làm nên những kỳ tích ấy?
Nhật Bản: Đức tính nhẫn chịu và lối sống tiết kiệm
Khi hai trái bom nguyên tử của Mỹ ném xuống Hiroshima và Nagasaki vào tháng 8 năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ 2 đã thật sự chấm dứt trên một nước Nhật điêu tàn với 3 triệu người chết và mất tích, 40% đô thị bị phá hủy. Những thành phố lớn như Tokyo, Osaka, Nagoya, Kobe, Kagoshima trở thành bình địa.
Bại trận và phải ký hiệp ước đầu hàng phe đồng minh, Nhật mất tất cả từ các thuộc địa trước đây lẫn chủ quyền vì là nước bị chiếm đóng. Những khoản bồi thường khổng lồ sau chiến tranh càng khiến tương lai của đất nước Phù Tang trở nên tăm tối mù mịt hơn bao giờ hết.
Nhưng người dân Nhật không đánh mất ý chí. Kẻ bại trận ý thức về thân phận của mình nên càng mang niềm tin và hy vọng về sự trỗi dậy của một đất nước nhiều thiên tai và nghèo tài nguyên.
Câu chuyện thần kỳ của Nhật được biết đến khi chỉ 10 năm sau chiến tranh, nền kinh tế đã bước đầu khôi phục, rồi 10 năm tiếp theo là thời kỳ phát triển thần tốc với mức tăng trưởng bình quân 10%. Năm 1968, Nhật trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và chỉ chịu nhường vị trí này cho Trung Quốc từ năm 2010.
Không những vậy, Nhật còn là nước Châu Á có nhiều giải thưởng Nobel nhất trên nhiều lĩnh vực từ khoa học đến văn chương. Vì sao Nhật có thể làm được điều đó? Câu trả lời nằm ở tinh thần kiên nhẫn đến kỳ lạ của người Nhật. Sau Thế chiến thứ 2, đất nước vốn được biết đến là có niềm tự hào dân tộc ghê gớm này đã ngay lập tức gạt bỏ nỗi đau của kẻ thua trận, thẳng thắn thừa nhận những sai lầm của mình và dồn toàn tâm toàn trí xây dựng lại đất nước.
Trong khi các cường quốc lao vào cuộc chạy đua vũ trang thì người Nhật chọn nhẫn nhục chấp nhận trở thành một quốc gia không còn quyền lực chính trị. Họ đã sáng suốt từ chối một số trách nhiệm chính trị. Nói cách khác, họ thoát ra khỏi cái tiếng của cường quốc chính trị để tập trung làm giàu cho đất nước của mình. Và bây giờ, họ được mời trở lại như một cường quốc chính trị, được khuyến khích, thậm chí được thúc giục trở thành một cường quốc chính trị. Họ đã thắng ngay sau khi vừa thua.
Ngoài ra, Nhật Bản còn khiến cả thế giới phải ngưỡng mộ, kính phục bởi lối sống đơn giản, tiết kiệm. Đặc biệt, sau chiến tranh, điều đó lại càng thể hiện rõ nét trong xã hội. Ngay từ bé, trẻ con Nhật Bản đã được dạy dỗ về sự nghèo khó sau chiến tranh của một đất nước khan hiếm tài nguyên thiên nhiên và mọi người đều phải biết tiết kiệm trong mọi hoạt động đời sống.
Người Nhật xem tiết kiệm là một cách tích lũy nguồn vốn quan trọng giúp đất nước đi lên. Nhiều công ty dẫn dắt nền kinh tế Nhật đi lên sau chiến tranh từ những nhà xưởng nhỏ bé. Tập đoàn Sony nổi tiếng toàn cầu của hôm nay được khởi nghiệp từ một căn phòng tồi tàn ở tầng 3 một cửa hàng bách hóa tại Tokyo.
Đức: Trí tuệ của một dân tộc tri thức
Chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, nước Đức bại trận kéo theo những hậu quả thật khó hình dung: nền công nghiệp thuộc loại hàng đầu chỉ còn lại 20%, gần phân nửa nhà cửa bị xóa sạch, 12% dân số tử vong, nạn đói kéo dài ba năm mà cao điểm là vào mùa đông 1946, lạm phát phi mã, trao đổi mua bán chủ yếu là ở các khu chợ trời, trộm cắp hoành hành khắp nơi…
Cũng giống như Nhật, bức tranh kinh tế xã hội càng u ám hơn khi nước Đức bại trận phải chịu những khoản bồi thường chiến tranh vượt quá khả năng và tiềm năng. Đất nước bị chia cắt thành hai miền Đông – Tây và bị chiếm đóng với hai chế độ chính trị đối lập.
Vậy mà, chỉ 11 năm sau khi thành lập nước Cộng hòa liên bang vào năm 1949, dân tộc Đức đã có những bước dài phát triển mà tất cả các nước đều phải ngưỡng mộ. Ngày nay, Đức là quốc gia có nền kinh tế thứ 4 của thế giới, là đầu tàu của châu Âu.
Đúc kết quá trình hồi sinh thần kỳ của một nước Đức mới, nhiều nhà phân tích cho rằng đó là sự tổng hòa của ba yếu tố căn bản mang thuộc tính của dân tộc Đức.
Thứ nhất, nước Đức đã vận dụng khôn khéo hoàn cảnh lịch sử tưởng chừng như là trở ngại: họ vừa nhẫn nhục, vừa âm thầm nỗ lực tìm kiếm con đường đi riêng. Người Đức đã tận dụng được sự khác biệt của các nước chiếm đóng, đặc biệt là giữa người Mỹ và người Nga ở hai cực ý thức hệ, để có được sự hỗ trợ kinh tế qua kế hoạch Marshall của Hoa Kỳ vào năm 1948, dùng các khoản viện trợ làm vận tốc đầu cho cuộc hồi sinh ngoạn mục, trong điều kiện một cuộc Chiến tranh lạnh đang manh nha.
Thứ hai, Đức có vốn tri thức rất lớn. Cho dù hàng loạt tài năng xuất chúng trên nhiều lĩnh vực đã bỏ ra nước ngoài trước và sau chiến tranh như Sigmund Freud, Von Braun… nhưng vẫn còn quá nhiều trí thức – được thuyết phục bởi các chính sách sử dụng chất xám đã không ngừng chung sức cho một nước Đức hùng cường.
Sự hình thành của chủ thuyết kinh tế thị trường xã hội (Social Market Economy) với ba nhân vật chủ chốt Walter Eucken, Alfred Muller Armack và Ludwig Erhard (người sau này làm Thủ tướng lèo lái con tàu kinh tế Đức từ 1963 đến 1966) là một điển hình sống động. Về cơ bản, kinh tế thị trường xã hội hướng tới ba mục đích vốn là tiền đề phát triển lành mạnh, đó là (1) phục vụ tự do con người, (2) công bằng và an ninh xã hội và (3) hòa hợp giữa mọi xu hướng xã hội.
Yếu tố thứ ba đó là một nền dân chủ pháp trị – pháp quyền được hình thành ngay sau khi thành lập một nước cộng hòa liên bang, thoát khỏi sự kìm kẹp của lực lượng chiếm đóng.
Tất cả đã tạo nên một bản hợp ca hoàn chỉnh: nước Đức thống nhất hai miền Đông Tây sau “cuộc bỏ phiếu bằng đôi chân”.
Hàn Quốc: Cầu thị và hiếu học
Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, Hàn Quốc là một nước nghèo nàn, lạc hậu. Đặc biệt, khi chiến tranh Nam – Bắc Triều Tiên kết thúc năm 1953, Hàn Quốc đã bị tàn phá nặng nề. Nhiều thành phố của Hàn Quốc chỉ còn là đống tro tàn, thu nhập bình quân đầu người khoảng 67 USD/năm, nhiều vùng nông thôn buộc phải ăn đến cọng rau ngọn cỏ, phải lên núi kiếm thức ăn.
Năm 1961, GDP bình quân đầu người của Hàn Quốc dưới 80 USD/năm, hầu hết người dân vẫn đói nghèo, không thể đảm bảo nhu cầu sống tối thiểu, nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, lúc đó cũng phải chịu những trận lũ lụt nối tiếp hạn hán triền miên, nạn đói đã từng xảy ra không bỏ sót một vùng đất nào. Trong khi đó hệ thống chính trị, quan chức tham nhũng, không lo cho dân đã đẩy Hàn Quốc đến chỗ nguy vong, nghèo đói cùng cực.
Thế nhưng, người Hàn Quốc không đầu hàng số phận, kinh tế Hàn Quốc đã có sự nhảy vọt ngoạn mục đến kinh ngạc. Họ đã biết tận dụng những khoản viện trợ của cộng đồng quốc tế, trong đó chỉ riêng viện trợ của Hoa Kỳ đã chiếm đến hơn 30% ngân sách chính phủ. Người Mỹ đã giúp Hàn Quốc cho đến năm 1957 và họ đã chọn đúng đất nước biết sử dụng hiệu quả những khoản tiền vào nền công nghiệp tạo sức bật kinh tế sau này.
Sau khi hàng loạt tuyến đường sắt được xây dựng từ sự giúp đỡ tiền bạc của quốc tế, mạch máu kinh tế của đất nước thuộc vào hàng nghèo nhất thế giới bắt đầu phục hồi sau chiến tranh, và dần dần bớt lệ thuộc vào viện trợ nước ngoài.
Theo đó, Hàn Quốc tập trung phát triển công nghiệp và kích thích tiêu dùng hàng nội địa. Người dân luôn ý thức rằng việc sử dụng tiền bạc chính là thể hiện trách nhiệm đối với đất nước và họ xem hàng tiêu dùng ngoại nhập là xa xỉ.
Sau 40 năm gây ngạc nhiên bằng tốc độ tăng trưởng bình quân 7,6%, người Hàn Quốc đã vượt châu Âu với thu nhập bình quân đầu người hơn 32.000 đô la Mỹ. Sản phẩm công nghiệp của Hàn Quốc chinh phục người tiêu dùng khắp nơi trên thế giới.
Để làm được điều này, người Hàn Quốc đã lấy giáo dục làm bệ phóng đưa cả dân tộc đi lên. Tổng thống đầu tiên của Hàn Quốc Lee Sung Man nguyên là một nhà giáo dục, xuất thân là tiến sĩ triết học tại Đại học Princeton của Mỹ. Ngay cả trong thời kỳ chiến tranh Liên Triều, ông vẫn hết lòng cho sự nghiệp giáo dục.
Gác lại “nỗi hận” từng bị xâm chiếm, Hàn Quốc đã tận dụng tính ưu việt của nền giáo dục Nhật Bản có bề dày hàng trăm năm. Năm 1968, người Hàn mang nguyên bộ sách giáo khoa của người Nhật về dịch sang tiếng Hàn và giảng dạy, ngoại trừ các môn xã hội như địa lý, lịch sử và văn học. Lúc đó, vì tính sĩ diện, đã có rất nhiều người chỉ trích nhưng Chính phủ vẫn quyết tâm thực hiện.
Kết quả, ngày nay, người Hàn Quốc được đánh giá là học tập rất chăm chỉ và có trình độ học vấn cao nhất trong các quốc gia thuộc OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế), với 98% dân số hoàn thành bậc trung học và 63% hoành thành bậc cao đẳng.
Như vậy, nhờ đức tính cầu thị và hiếu học mà người Hàn Quốc đã đưa đất nước vươn lên trở thành con rồng kinh tế từ một quốc gia nghèo đói nhất nhì Châu Á vào đầu thập niên 1990.
Bạn đang đọc bài viết: “Bí quyết nào giúp Đức, Nhật Bản và Hàn Quốc từ kém phát triển vươn lên thành cường quốc?“ tại chuyên mục Đời Sống của Đại Kỷ Nguyên. Để cập nhật thêm nhiều bài viết hay, quý độc giả vui lòng truy cập Fanpage chính thức của chúng tôi: facebook.com/DaiKyNguyenVanhoa/. Mọi ý kiến phản hồi và tin bài cộng tác xin gửi về hòm thư: [email protected]. Xin chân thành cảm ơn! |