Tác giả: Tống Bảo Lam

Cuộc đông chinh của Tần Vương Lý Thế Dân, vốn đã đặt thành Lạc Dương vào thế nguy như trứng treo, đột nhiên phải đối mặt với một lực lượng cứu viện không thể lường trước – Hạ chủ Đậu Kiến Đức.

Ở hồi trước, Tần Vương đã triệu tập các tướng để nghị sự, bàn bạc đối sách. Khi các tướng còn đang nhìn nhau, chưa nghĩ ra kế sách gì hay, may thay đã có Dương Địch Quận công Quách Hiếu Khác đứng ra phá vỡ thế bế tắc, khiến không khí cuộc họp bắt đầu sôi nổi trở lại.

Lúc này, một viên bộ tướng khác là Tiết Thu đã tiếp lời, nói với Tần Vương: “Đại vương, Vương Thế Sung cố thủ Lạc Dương, bộ hạ của ông ta đều là những binh sĩ tinh nhuệ đất Giang Hoài, kiêu dũng thiện chiến. Hiện tại chỉ vì thiếu lương thảo nên bất đắc dĩ phải cố thủ trong thành. Đậu Kiến Đức đem quân đến cứu viện, vận chuyển lương thảo, e rằng sĩ khí quân địch sẽ phục hồi, hai bên trong ngoài ứng hợp, đến lúc đó khó tránh khỏi thành tai vạ.”

Ông hiến kế xin chia quân làm hai đường: một đường tiếp tục vây khốn Lạc Dương, một đường do chính Tần Vương thân chinh dẫn quân chốt giữ Hổ Lao Quan để chặn đánh Đậu Kiến Đức. Ông cho rằng chưa đầy hai tuần, ắt có thể bắt sống được cả Kiến Đức và Thế Sung.

Lý Thế Dân vừa nghe, cho rằng chủ ý này quả thực tinh diệu, liền đáp: “Lời khanh rất hợp ý ta, lập tức thi hành.”

Tiết Thu – Người đứng đầu “Hà Đông Tam Phượng”

Vị Tiết Thu có mưu lược tài tình này rốt cuộc là ai? Hẳn nhiên, những người có thể vào Tần Vương phủ đều không phải là kẻ tầm thường vô năng. Tiết Thu là một trong “Hà Đông Tam Phượng” (Ba con phượng hoàng đất Hà Đông), và còn đứng đầu trong ba người. Biệt danh tao nhã này từ đâu mà có?

Theo Cựu Đường thư, “Thu là Trưởng sồ, Đức Âm là Nhạc trạc, Nguyên Kính vì tuổi nhỏ nhất nên là Uyên sồ.” Trưởng sồ, Nhạc trạc (phượng hoàng tím) và Uyên sồ (phượng hoàng vàng) đều là những loài thần điểu trong truyền thuyết. Tiết Thu cùng anh họ Tiết Đức Âm và cháu trai Tiết Nguyên Kính vì tài văn chương hoa mỹ, lời lẽ như ngọc gấm, tựa như bộ lông vũ đầy thần thái của phượng hoàng, nên cả ba người được ca ngợi là “Hà Đông Tam Phượng”, cả gia tộc cùng hưởng danh tiếng lẫy lừng. (Cựu Đường thư, quyển 73, mục “Tiết Thu”)

Tiết Thu xuất thân trong một gia đình quan lại. Cha ông là Tiết Đạo Hành, từng giữ chức Nội sử Thị lang của triều Tùy. Sau khi Tùy Dạng Đế lên ngôi, Tiết Đạo Hành dâng lên một bài từ chương có tên Cao Tổ Văn Hoàng Đế Tụng để ca ngợi tiên đế Tùy Văn Đế. Tùy Dạng Đế xem xong vô cùng không vui, nói với Tô Uy rằng: “Đạo Hành ca tụng triều trước, đây chẳng khác nào ý nghĩa ‘mượn xưa chê nay’ của bài Ngư Tảo.” [Chú thích: Ngư Tảo là một bài thơ trong Kinh Thi, vốn có ý nghĩa là dân chúng tưởng nhớ Chu Vũ Vương, ca ngợi sự hiền minh của ông, nhưng cũng ngầm châm biếm sự hôn dung (ngu dốt) vô đạo của Chu U Vương.] Một bài từ chương hoa mỹ lại gây ra tai họa, làm mất lòng Tùy Dạng Đế, ông bị giáng chức thành Tư lệ Đại phu.

Tiết Đạo Hành là người thẳng thắn, bình luận chính sự một cách công tâm, không màng đến mưu mô toan tính, nhưng lại bị Ngự sử Đại phu Bùi Uẩn đàn hặc, nói rằng: “Đạo Hành cậy tài khinh cũ, có lòng vô quân. Thấy chiếu thư ban xuống liền bàn tán sau lưng, đổ lỗi cho quốc gia, tùy tiện gây họa…, tội này là đại nghịch.” Do đó, Tùy Dạng Đế ra lệnh cho Tiết Đạo Hành phải tự vẫn. Tiết Đạo Hành cho rằng mình không có lỗi, không muốn tự vẫn, cuối cùng bị người ta siết cổ đến chết. Vợ của ông cũng bị đày đến Thả Mạt (nay là huyện Thả Mạt, Tân Cương). Gia đình họ Tiết phải chịu nỗi oan khuất này, người trong thiên hạ đều bất bình thay cho họ. (Tùy thư, quyển 57 và 67)

Từ đó về sau, con trai của Tiết Đạo Hành là Tiết Thu đã lập chí lớn, quyết không làm quan cho nhà Tùy. Phòng Huyền Linh nghe danh tiếng của ông, đã tiến cử ông vào Tần Vương phủ. Lý Thế Dân yêu mến tài năng, lập tức triệu kiến ông, hỏi về kinh lược trị quốc. Tiết Thu trình bày từng điều, biện luận sâu sắc, đều hợp với ý của Tần Vương. Lý Thế Dân bèn bổ nhiệm ông giữ chức Chủ bộ trong Tần Vương phủ. Chị em gái của Tiết Thu là Tiết thị thì được nạp làm Tiệp dư của Đường Cao Tổ.

Lý Thế Dân nghe theo kế sách của Quách Hiếu Khác và Tiết Thu, bắt đầu bài binh bố trận. Ông đích thân dẫn theo một loạt mãnh tướng như Lý Thế Tích, Trình Tri Tiết, Tần Thúc Bảo, Uất Trì Kính Đức, cùng tổng cộng 3,500 kỵ binh, tức tốc đến Hổ Lao Quan.

Đồng dao “Đậu vào miệng trâu, thế không bền lâu” ứng nghiệm

Trước đó, trong quân của Đậu Kiến Đức, không biết từ lúc nào đã lan truyền một câu đồng dao: “Đậu nhập ngưu khẩu, thế bất đắc cửu” (Đậu vào miệng trâu, thế không bền lâu). Ban đầu, mọi người không hiểu ý nghĩa của nó. Khi Đậu Kiến Đức dẫn quân đến Ngưu Khẩu Chử (Bến Miệng Trâu), ông chợt nhớ đến câu đồng dao này và cảm thấy tình hình không ổn. Quả nhiên, không lâu sau, Đậu Kiến Đức đại bại sau trận quyết chiến với Tần Vương ở Hổ Lao Quan, và bị quân Đường bắt sống khi đang chạy trốn đến Ngưu Khẩu Chử. Chữ “Đậu” (豆) trong câu đồng dao đồng âm với họ “Đậu” (竇) của ông.

Lý Thế Dân ra lệnh nhốt Đậu Kiến Đức vào xe tù, dẫn quân đến dưới thành Lạc Dương. Ông dùng roi ngựa chỉ vào xe tù, hét lớn vào trong thành: “Vương Thế Sung, cứu viện mà ngươi trông cậy đã bị nhốt trong xe tù rồi, ngươi hãy nhìn những chiếc xe tù khác xem…”

Quân Đường lại dắt ra mấy chiếc xe tù nữa, bên trong giam giữ Vương Oản, Trưởng Tôn An Thế và những người khác. Vương Thế Sung thấy đại thế đã mất, nghẹn ngào nói với Tần Vương: “Đại vương, nếu tôi ra hàng, liệu có thể tha cho tôi một mạng không?” Lý Thế Dân lập tức đồng ý.

Vương Thế Sung mở cổng thành đầu hàng. Lý Thế Dân đối đãi với ông ta bằng lễ, ra lệnh cho Tiêu Vũ và những người khác niêm phong kho tàng ở Lạc Dương, kiểm kê vàng bạc, rồi ban thưởng cho các tướng sĩ theo quân công. Ông lại cho người rà soát lại các hàng tướng, những ai tội ác nặng nề đều bị xử trảm. Các châu huyện thuộc hai nước Trịnh và Hạ do Vương Thế Sung và Đậu Kiến Đức lập nên, không lâu sau đó đều quy hàng Đại Đường.

Khi Tần Vương Lý Thế Dân nhìn thấy cung điện ở Lạc Dương, ông không khỏi cảm khái thở dài: “Vơ vét mồ hôi nước mắt của dân, chỉ để thỏa mãn lòng tham của mình, ôm giữ tâm xa hoa lãng phí, sao có thể không thất bại?” Ông ra lệnh một tiếng, cho dỡ bỏ lầu Đoan Môn, đốt điện Can Dương, phá hủy Thiên Môn khuyết, bãi bỏ nhiều đạo trường, trả lại của cải cho dân. Bá tánh khắp thành Lạc Dương vui mừng hoan hô, đều ca ngợi Tần Vương là người hiền minh thần võ, nhân từ che chở cho dân.

Theo Epoch Times
Hương Thảo biên dịch