Lời tòa soạn: Các dân tộc Á Đông có một nền văn minh vô cùng xán lạn. Lịch sử Á Đông nói chung, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam, rất hào hùng, tràn đầy khí chất. Lịch sử 5000 năm văn minh, văn hoá của Á Đông là cả một kho tàng vô giá cho hậu thế. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những quan niệm mới có phần thiên kiến, lệch lạc, lịch sử ấy đã bị cải biên và ngụy tạo nhiều. Với mong muốn phục hưng lại nền văn minh vĩ đại cũng như những truyền thống đạo đức quý báu của người Á Đông, chúng tôi tiến hành loạt bài về lịch sử Việt Nam, Trung Hoa… gửi đến quý độc giả, ngõ hầu phá giải được những quan niệm sai lệch hiện nay.
- Loạt bài dài kỳ: Phong vân mạn đàm
Điền Quang xem xong ba người rồi nói: “Ba người này đều không được. Hạ Phù là người ‘huyết dũng’, tức giận ắt đỏ mặt. Tống Ý là người ‘mạch dũng’, tức giận ắt xanh mặt. Còn Vũ Dương là người ‘cốt dũng’, tức giận mặt trắng bệch. Thần biết có một người tên Kinh Kha, đây là người ‘thần dũng’, khi tức giận mặt không hề biến sắc, dũng mãnh phi thường. Người này mới có thể làm thích khách”…
Trong Chiến Quốc Thất Hùng, Hàn là nước nhỏ yếu nhất. Nước Hàn ở kế nước Tần. Nước Hàn trong 200 năm thời Chiến Quốc hầu như không đánh thắng trận nào, mỗi lần chiến trận đều thua, quốc thổ càng ngày càng nhỏ. Đợi đến khi Tần vương muốn diệt nước Hàn, nước Hàn đã nhỏ yếu đến độ như thế rồi, trên cơ bản không có khả năng chống cự nên đành phải đầu hàng.
Trước khi nước Hàn đầu hàng còn có một sự việc, chính là vào năm 238 TCN, Hàn Vương An kế vị, đây là vị quân chủ cuối cùng của nước Hàn. Hàn Vương An có một tôn thất tên là Hàn Phi. Hàn Phi chính là Hàn Phi Tử – nhân vật đại biểu rất nổi tiếng của Pháp gia.
Hàn Phi Tử có một tật là tật nói lắp. Theo “Hàn Phi Tử liệt truyện” ghi lại: ‘Phi là người có tật nói lắp, không thể nói lưu loát, nhưng giỏi đọc sách học tập’. Do đó ông viết rất nhiều sách như là “Thuyết nan”, “Cô phẫn”, “Ngũ đố”… Những cuốn sách này đã truyền đến nước Tần.
Tần vương sau khi xem những cuốn sách này thì rất muốn gặp Hàn Phi Tử, hy vọng có thể làm hảo bằng hữu với Hàn Phi Tử. Sau này Hàn Phi Tử làm sứ thần để đến nước Tần, tiếp sau đó phát sinh rất nhiều sự việc. Trong “Sử ký” và “Tư trị thông giám” viết không rõ ràng. Hàn Phi Tử đến nước Tần không lâu liền bị Tần vương giam vào ngục. Hàn Phi Tử không biết vì sao lại bị giam vào ngục.
Có một cách nói cho rằng vì Lý Tư nói Hàn Phi Tử là dòng dõi tôn thất của nước Hàn, cho nên Hàn Phi Tử sẽ không thật sự cống hiến vì nước Tần. Tần vương tin lời Lý Tư, bèn giam Hàn Phi Tử vào ngục. Lý Tư lại đưa thuốc độc cho Hàn Phi Tử, Hàn Phi Tử uống thuốc độc mà chết.
Hàn Phi Tử và Lý Tư là bạn học, thầy của họ là Tuân Tử. Khi hai người họ học cùng nhau, Lý Tư cho rằng mình không bằng Hàn Phi Tử, sợ Hàn Phi Tử ở trước mặt Tần vương mà được sủng ái, sẽ phân chia quyền lực với mình cho nên đầu độc Hàn Phi Tử.
Chúng ta thấy rằng những nhân vật đại biểu của Pháp gia đều không chết yên ổn. Thương Ưởng, Lý Tư, Hàn Phi Tử là ba nhân vật đại biểu nổi tiếng nhất của Pháp gia. Thương Ưởng bị tứ mã phanh thây, Lý Tư bị chém ngang lưng, Hàn Phi Tử bị trúng độc. Trong Pháp gia, Thương Ưởng là người ‘đầu têu thói xấu’ (1), Hàn Phi Tử là người gom góp lại tư tưởng của Pháp gia. Pháp gia chủ trương không cho lão bách tính tự do ngôn luận, gọi là ‘đầu tiên là cấm tư tưởng, kế đến là cấm ngôn luận, tiếp đến là cấm làm việc’. Hơn nữa Pháp gia chủ trương chính sách ngu dân.
Hàn Phi Tử giảng: ‘Vì vậy, quốc gia của minh chủ, không lấy văn thư trong sách vở, mà lấy hình pháp để giáo hoá. Nếu không có lời của tiên vương, thì lấy lời quan lại làm chỉ đạo’. Pháp gia miệt thị hết thảy văn hoá truyền lại từ cổ chí kim, giá trị quan đạo đức, hơn nữa Pháp gia theo Thuyết vô Thần.
Pháp gia đem quan hệ vua – dân làm thành mối quan hệ đối địch, cho nên nghĩ mọi cách để lão bách tính trở nên bần cùng, biến thành nhỏ yếu, ngu muội, gian dối, giảo hoạt… Do đó Pháp gia thi hành chính sách ngu dân, hết thảy cách làm thực sự rất giống Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ).
Khi tôi đọc sử, xem đến cách làm này của Pháp gia, bao gồm cả lý luận của họ, tôi cảm thấy thảo nào ĐCSTQ thích Pháp gia đến như vậy. Bởi vì suy nghĩ của ĐCSTQ giống Pháp gia như đúc, chỉ bất quá ĐCSTQ hiểm ác và cực đoan hơn Pháp gia mà thôi.
Có người có thể nói, Pháp gia giảng pháp luật chẳng phải rất tốt hay sao? Pháp luật mà Pháp gia giảng không phải như pháp luật như ý nghĩa hiện đại của chúng ta, mà đây là ‘ác pháp’ (pháp luật tàn ác hà khắc). Xã hội hiện đại khi chế định pháp luật có một nguyên tắc, nguyên tắc này đều viết trong hiến pháp của các nước. Nguyên tắc chế định hiến pháp nên nên xuất phát từ hệ thống tín ngưỡng hoặc hệ thống đạo đức. Theo nghiên cứu của các pháp luật gia phương tây, pháp luật của phương tây có quan hệ với 10 điều răn của Thượng Đế cho Moses ở núi Sinai.
Trong 10 điều răn, có nói không được sát sinh, từ đó phái sinh ra một bộ hệ thống hình pháp. Từ không được gian dâm, phái sinh ra một bộ hệ thống về hôn nhân. Từ không tham luyến tài vật của người khác, phái sinh ra một bộ hệ thống về luật tài sản. Toàn thể hệ thống pháp luật ở phương tây, kỳ thực đến từ 10 điều răn của Thượng Đế cho Moses, đây là quan điểm của pháp luật gia phương tây.
Pháp luật của Trung Quốc, trong quá khứ gọi là “Xuân Thu quyết ngục”, chính là chiểu theo kinh điển của Nho gia, dựa theo tiêu chuẩn đạo đức kiến lập từ thời Xuân Thu mà xét xử vụ án. Mục đích cuối cùng của pháp luật là duy trì Công bình và Chính nghĩa trong xã hội.
Pháp gia chế định pháp luật, mục đích của họ không phải vì công bằng chính nghĩa của xã hội, mà là pháp luật chống lại công bình và chính nghĩa, gọi đây là ‘ác pháp’ (惡法). Chiểu theo pháp luật học ngày nay mà giảng, ‘ác pháp’ không phải là pháp luật. Là một công dân, một người có lý tính có đạo đức, bạn không cần có nghĩa vụ phải tuân theo ác pháp, mà còn phải phế trừ loại pháp luật như vậy.
Ở Mỹ có một người tên là Martin Luther King, khi đó ông dẫn dắt cuộc vận động nhân quyền để trừ bỏ “Luật phân biệt chủng tộc”. Khi ấy, nguyên nhân của cuộc vận động nhân quyền là: tuy rằng “Luật phân biệt chủng tộc” là luật, nhưng nó là ác pháp. Những người ủng hộ vận động dân quyền này có thể thách thức luật pháp (vi phạm luật pháp), bởi vì bạn không thể bắt giam tất cả người những này vào ngục nếu những người đó không tuân thủ “Luật phân biệt chủng tộc”, do đó pháp luật này tự nhiên không tồn tại nữa. Cuộc vận động nhân quyền khi đó là một cuộc vận động phi bạo lực, không hợp tác. Cũng giống như các học viên Pháp Luân Công ở Trung Quốc đại lục, sự phản kháng của họ đối với một số luật lệ hà khắc của ĐCSTQ, thực ra rất giống với cuộc vận động nhân quyền của Martin Luther King.
Pháp luật do Thương Ưởng chế định, đây là ác pháp điển hình. Ví như nói ông ta chế định luật cáo buộc hiếp dâm, luật tội liên đới, luật khuyến khích sát nhân v.v. Những luật đó đều thuộc về ác pháp rất điển hình. Thương Ưởng ở Vị Thuỷ, ông tự mình kiểm tra tù nhân, giết người lập uy, một ngày giết hơn 700 người, Vị Thuỷ đỏ nước, tiếng khóc ai oán khắp nơi.
Pháp gia giảng ba phương diện: một cái gọi là Pháp – 法, một cái gọi là Thuật – 術, một cái nữa gọi là Thế – 勢. Pháp chính là ác pháp. Vậy thì Thuật là gì? Thuật so với Pháp còn ác liệt hơn. Thuật chính là Âm mưu. Học thuyết của Pháp gia có thể nói là liên quan đến học vấn Âm mưu. Hàn Phi Tử viết rất nhiều rất nhiều sách, chúng đều là âm mưu ‘muôn phần kỳ quái’ (2), nhiều người căn bản không thể tưởng tượng nổi.
Trong “Sử ký” ngẫu nhiên cũng có ghi chép những điều Hàn Phi Tử giảng liên quan đến âm mưu. Đây là nói về Pháp và Thuật. Hàn Phi Tử giảng: ‘Pháp là biên soạn sách vở, đặt trong phủ quan, dành cho bách tính. Thuật là cất giấu trong lòng, tư tưởng ẩn trong quần thần. Do đó, Pháp để cho người thấy, Thuật không để người thấy’. Ý nghĩa là nói: Pháp luật phải công bố, để cho mọi người biết, có quy định 1 2 3 4; Thuật là Âm mưu, âm mưu chỉ có thể để trong lòng; do đó ‘Pháp sáng Thuật tối’, ‘Pháp hiển Thuật tàng’ (Pháp hiển hiện, Thuật ẩn giấu).
Hàn Phi Tử giảng âm mưu, thuận theo một vài ghi chép của sách xưa (điển tịch) lưu truyền ở Trung Quốc, nhưng loại âm mưu này ở Trung Quốc cổ đại chỉ được sử dụng trong phạm vi nhỏ, cá biệt một số người. Chẳng phải ĐCSTQ tuyên truyền những thứ như thế trên TV, cứ như cổ nhân đều là âm mưu gia, mỗi ngày đang suy nghĩ hại người.
‘Thế’ của Pháp gia là gì? ‘Thế’ chính là quyền uy của quân chủ. Quân chủ phải đảm bảo được uy quyền của mình. Loại quyền uy này là do quyền lực mang đến, là một loại lực lượng khiến con người sợ hãi phục tùng. Quyền uy này giống như hổ, chỉ cần có nanh vuốt, mọi người sẽ sợ bạn, dựa vào lực uy hiếp này để bảo trì quyền lực của quân chủ.
Lời bạch: Pháp gia nhấn mạnh ba phương diện là Pháp, Thuật và Thế. Pháp chính là ác pháp, Thuật chính là Âm mưu, Thế chính là Độc tài. Pháp gia muốn quân chủ lấy thủ đoạn tàn khốc và hung ác để đối đãi với quần thần và bách tính, đây là học thuyết khá tà ác.
Hàn Phi Tử là người góp nhặt các tư tưởng của Pháp gia, ông bị một đại biểu khác của Pháp gia là Lý Tư hãm hại, bị trúng độc mà chết. Ba năm sau, tức năm 230 TCN, nước Hàn diệt vong. Lại qua thêm hai năm, nước Tần diệt nước Triệu, Triệu vương Thiên bị bắt làm tù binh, công tử Triệu Gia lập nước Đại. Năm thứ hai Triệu vương Thiên bị bắt làm tù binh, đã phát sinh sự kiện ‘Kinh Kha thích Tần’ (Kinh Kha hành thích Tần vương).
Câu chuyện ‘Kinh Kha thích Tần’ mọi nhà đều biết. Người phái Kinh Kha hành thích Tần vương là Thái tử nước Yên là Cơ Đan, còn gọi là Thái tử Đan. Theo “Sử ký – Thích khách liệt truyện” ghi lại, [thời làm con tin ở nước Triệu] hai người là Thái tử Đan và Tần vương Doanh Chính vui chơi với nhau rất vui vẻ, sau này khi Doanh Chính trở về nước Tần làm Tần vương, Thái tử Đan lại đến nước Tần làm con tin. Thái tử Đan tin rằng Tần vương là bạn lâu năm nên sẽ đối đãi với anh ta rất tốt, không ngờ Tần vương lại đối xử với anh ta không hề khách khí nên Thái tử Đan rất tức giận. Anh ta len lén từ nước Tần về lại nước Yên, sau đó tìm người để hành thích Tần vương.
Thái tử Đan sau khi về lại nước Yên, một tướng quân của nước Tần là Phàn Ư Kỳ cũng chạy đến nước Yên. Phàn Ư Kỳ là một người vô cùng thống hận Tần vương, toàn bộ người nhà của ông đều bị giết, người nhà ông bị tru di. Phàn Ư Kỳ chạy trốn đến nước Yên, Thái tử Đan lưu ông ta lại.
Thầy của Thái tử Đan là Cúc Vũ vô cùng phản đối cách làm của người học trò, ông nói: “Để nước Tần cường đại mà oán hận thâm sâu nước Yên như vậy, thì nước Yên đã gặp nguy hiểm rồi. Hiện nay ngài cho lưu lại Phàn Ư Kỳ – người mà Tần vương thống hận, giống như đặt miếng thịt trên đường có hổ đi qua, sẽ mang đến cho nước Yên nguy hiểm vô cùng.
Hiện tại nước Yên nên làm hai việc. Việc thứ nhất là đưa Phàn Ư Kỳ đến Hung Nô lánh nạn, như vậy nước Yên sẽ không còn nguy hiểm nữa. Việc thứ hai là Thái tử hãy nhanh chóng thiết lập liên minh hợp tung, liên kết Tề, Sở và Tam Tấn để cùng nhau kháng Tần”.
Thái tử Đan nói: “Thầy à, cách nghĩ thầy đề xuất, thời gian thực thi rất dài, sẽ không có được hiệu quả gì đâu. Hiện tại trò không đợi được, Phàn Ư Kỳ bị khốn cùng đến đầu hàng, trò không thể đuổi anh ta ra khỏi cửa được”. Cúc Vũ thấy rằng Thái tử Đan không nghe khuyên can, bèn tiến cử một người là Điền Quang. Thái tử Đan khi đi thỉnh Điền Quang, Điền Quang đã là một ông lão. Trong “Sử ký” miêu tả Điền Quang bằng hai chữ ‘gù lưng’.
Sau khi Thái tử Đan thỉnh Điền Quang đến cung điện, bèn cùng Điền Quang bàn bạc sự việc thích sát (hành thích) Tần vương. Điền Quang nói: “Thiên lý mã lúc trẻ sung sức, một ngày có thể chạy ngàn dặm đường, đến lúc nó già yếu, một con ngựa thường cũng chạy nhanh hơn nó. Ngài nghe đến danh tiếng của thần, đó là lúc thần còn trẻ. Còn bây giờ thần đã già rồi, không làm được việc ấy đâu”.
Điền Quang nói thêm: “Thần muốn xem một chút những dũng sĩ xung quanh ngài, có người nào có thể làm thích khách không”. Thái tử Đan bèn đưa ra ba võ sĩ yêu thích nhất của mình, một người tên là Hạ Phù, một người là Tống Ý, người cuối cùng là Vũ Dương, Thái tử Đan đưa cho Điền Quang xem.
Điền Quang xem xong ba người rồi nói: “Ba người này đều không được. Hạ Phù là người ‘huyết dũng’ (血勇), tức giận ắt đỏ mặt. Tống Ý là người mạch dũng (脈勇), tức giận ắt xanh mặt. Còn Vũ Dương là người ‘cốt dũng’ (骨勇) tức giận mặt trắng bệch. Thần biết có một người tên Kinh Kha, đây là người ‘thần dũng’ (神勇), khi tức giận mặt không hề biến sắc, dũng mãnh phi thường. Người này mới có thể làm thích khách”.
Thái tử Đan hỏi Điền Quang: “Ông có thể giới thiệu Kinh Kha cho ta không?”. Điền Quang đồng ý. Điền Quang bèn rời chỗ Thái tử Đan rồi lên xe. Trước khi lên xe, Thái tử Đan nói với Điền Quang: “Ta với ông đang bàn quốc gia đại sự, thỉnh ông ngàn vạn lần đừng tuỳ tiện nói cho người khác”. Điền Quang nói: “Không có vấn đề gì”.
Điền Quang bảo Kinh Kha đến nơi ông ta ở, đem sự việc này nói với Kinh Kha. Ông hỏi Kinh Kha: “Kinh Kha, anh có muốn đến gặp Thái tử không?”. Kinh Kha đã đồng ý.
Trước khi khởi hành, Điền Quang nói với Kinh Kha: “Trước khi ta nói chuyện này với cậu, Thái tử Đan từng nói với ta rằng, đây là chuyện quốc gia đại sự, không thể tuỳ tiện nói với người khác. Giống như lão già như ta đây, còn bị người khác nghi ngờ, sợ ta không thể giữ bí mật, đây thực là điều sỉ nhục”. Thế là Điền Quang ở trước mặt Kinh Kha mà tự vẫn.
Kinh Kha sẽ làm gì, và ai sẽ làm người đi hành thích Tần vương, kính mời quý độc giả đón xem phần tiếp theo.
Chú thích:
(1) Nguyên gốc là Sử tác dũng giả – 始作俑者: kẻ đầu têu thói xấu.
(2) Nguyên gốc là Thiên kỳ bách quái – 千奇百怪: Ngàn cái kỳ, trăm cái lạ. Ở đây dịch là: muôn phần kỳ quái.
Theo Epoch Times
Mạn Vũ biên dịch