Lời tòa soạn: Các dân tộc Á Đông có một nền văn minh vô cùng xán lạn. Lịch sử Á Đông nói chung, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam, rất hào hùng, tràn đầy khí chất. Lịch sử 5000 năm văn minh, văn hoá của Á Đông là cả một kho tàng vô giá cho hậu thế. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những quan niệm mới có phần thiên kiến, lệch lạc, lịch sử ấy đã bị cải biên và ngụy tạo nhiều. Với mong muốn phục hưng lại nền văn minh vĩ đại cũng như những truyền thống đạo đức quý báu của người Á Đông, chúng tôi tiến hành loạt bài về lịch sử Việt Nam, Trung Hoa… gửi đến quý độc giả, ngõ hầu phá giải được những quan niệm sai lệch hiện nay.

… Bào Thúc Nha đối xử rất nhân nghĩa với Quản Trọng, cho nên Quản Trọng mới thốt ra câu như thế này: “Sinh ra ta là cha mẹ, nhưng hiểu ta chỉ có Bào Thúc Nha”.

Nước Tề sau khi cứu nước Hàn và nước Triệu, thì trở thành quốc gia rộng lớn cường thịnh ở bờ đông của Trung Nguyên. Trước đó, nước Tề vì có quân vương là Tề Tương công để mặc chuyện triều chính, đạo đức bại hoại, nên khiến quốc gia rơi vào tình thế nguy hiểm. Vậy thì khi đó nước Tề làm thế nào để thoát ra khỏi tình huống khó khăn, rồi sau đó đi đến cường thịnh? Sau phần “Tôn Bàng đấu trí”, hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu một chút về nước Tề, từ thời Thiên tử nhà Chu phong đất cho Khương Tử Nha (thế kỷ 12 TCN) đến câu chuyện xưng bá của Tề Hoàn công. 

Khương Thượng câu cá gặp minh chủ

Nước Tề thời Xuân Thu và nước Tề thời Chiến Quốc là hai quốc gia khác nhau, vì họ của quân vương có sự thay đổi, còn quốc hiệu vẫn giữ nguyên. Nước Tề thời Xuân Thu là của họ Khương, còn nước Tề thời Chiến Quốc là của họ Điền. Trong “Sử ký” cũng phân biệt hai giai đoạn lịch sử này, có hai chương nói về nước Tề là “Tề Thái công thế gia (1)” và “Điền Hoàn thế gia”.

Quân vương đầu tiên của nước Tề là Khương Tử Nha. Khương Tử Nha tên thật là Khương Thượng. Khi Vũ vương phạt Trụ, Khương Tử Nha là đệ nhất công thần. Sau này khi phong thưởng cho các chư hầu, thì Võ vương lấy nước Tề cấp cho Khương Tử Nha.

Có rất nhiều truyền thuyết trong dân gian nói về Khương Tử Nha. Trong “Sử ký” có chỉ ra rõ ràng rằng, khi Khương Tử Nha câu cá ở sông Vị thì gặp được Chu Văn vương. Khi Khương Thái công câu cá, lưỡi câu của ông là thẳng chứ không phải cong. Trước khi đi săn, Chu Văn vương có sai người bói một quẻ, quẻ nói rằng ông sắp gặp được một người rất có tài cán. Kết quả khi Chu Văn vương đi săn thì gặp được Khương Tử Nha.

Khi gặp được Khương Tử Nha, Chu Văn vương rất vui mừng hưng phấn. Ông nói với Khương Tử Nha rằng: “Thái công (2) của ta. Ông nội ta là Cổ công Đản Phủ đã từng nói với ta rằng, tương lai sẽ có Thánh nhân đến phò tá bộ tộc Chu chúng ta. Từ đó trở đi, bộ tộc Chu sẽ ngày càng hưng thịnh”. Điều này có nghĩa là Chu Văn vương đã chờ đợi Khương Tử Nha từ rất lâu rồi.

Nguyên văn trong “Sử ký” có đoạn: “Ta mong ngóng Thái công đã rất lâu rồi”. Nguyên văn là: Ngô Thái công vọng tử cửu hĩ (吾太公望子久矣). Do đó Khương Tử Nha còn có tên khác nữa là Thái Công Vọng (太公望), tức là lấy ba chữ từ câu trên.

Tổ tiên của Khương Tử Nha là bề tôi của vua Nghiêu. Chư hầu thời Ngũ Đế giữ chức “Tứ nhạc” (四岳). “Tứ Nhạc” là chức quan của chư hầu, phụ trách việc quản lý bốn phương. Sau này khi Đại Vũ trị thủy, tổ tiên của Khương Tử Nha lại có công trong việc phò tá Đại Vũ, cho nên được phong đất Lã. Chúng ta biết rằng người xưa có một thói quen này, chính là lấy tên đất mình được phong để đặt làm họ. Ví như Khương Tử Nha tên thật là Khương Thượng, thì có thể gọi ông là Lã Thượng. Do đó Khương Thượng, Lã Thượng, Khương Tử Nha, Thái Công Vọng đều là chỉ một người.

Sau khi Vũ vương phong nước Tề cho Khương Tử Nha (khoảng thế kỷ 12 TCN), nước Tề tồn tại mãi cho đến năm 386 TCN với vị quân chủ cuối cùng là Tề Khang công. Thời đó nước Tề có Đại phu nhà họ Điền, thế lực rất lớn; còn Tề Khang công chỉ có Cô thành. Trong năm 386 TCN, họ Điền được Thiên tử nhà Chu phong là Chư hầu. Do đó đến từ năm 386 TCN trở đi, thì họ Điền thay thế họ Khương trong việc cai quản nước Tề. Năm 379 TCN, Tề Khang công bệnh mất, trong khi đó ông lại không có người nối dõi, thế là Cô thành cũng quy về nhà họ Điền. Điều này có nghĩa là từ năm 386 TCN trở đi, Tề Khang công không nắm quyền cai trị ở nước Tề nữa, tới năm 379 TCN thì ông mới mất. 

“Sử ký – Tề Thái công thế gia” có ghi lại: Khương Tử Nha không những giỏi trong đánh trận mà còn rất thuần thục trong việc trị quốc. Ông quản lý khéo, khiến quốc gia ngày càng giàu có. Nước Tề ở phía đông giáp biển, do đó ở nơi đây công nghiệp, thương nghiệp, ngư nghiệp, làm muối đều rất phát triển. Do vậy bấy giờ nước Tề rất giàu đó, đông đúc.

Khương Tử Nha đến nước Tề, không lâu sau thì Chu Vũ vương bệnh mất. Sau đó con trai của Vũ vương khi ấy mới 13 tuổi kế vị, chính là Chu Thành vương sau này. Chu Vũ vương phó thác con côi cho em trai của mình là Chu Công Đán phò tá. Không lâu sau, hai người em trai khác của Chu Vũ vương là Quản Thúc Tiên và Thái Thúc Độ làm phản. Khương Tử Nha cũng giúp đỡ Chu Thành vương dẹp loạn. Vì Khương Tử Nha có công phò tá Chu Văn vương, Chu Vũ vương, trợ giúp Chu Thành vương dẹp loạn, cho nên nước Tề có vị thế rất cao thời đó.

“Quản Bào chi giao”

Thời kỳ Tây Chu (3) kéo dài 300 năm không có phát sinh sự việc gì đáng kể. Sau thời Tây Chu, Trung Quốc tiến vào thời kỳ Xuân Thu. Thời Xuân Thu, nước Tề xuất hiện một vị quân vương rất xuất chúng, cũng là một trong Ngũ bá thời Xuân Thu, đó chính là Tề Hoàn công. Tên của Tề Hoàn công là Khương Tiểu Bạch. Sở dĩ Tề Hoàn công có thể xưng bá là vì ông có một Tể tướng rất xuất sắc là Quản Trọng. Quản Trọng có người bằng hữu rất tốt là Bào Thúc Nha (4). Trong lịch sử có lưu lại một câu thành ngữ để nói về tình bạn này, đó là “Quản Bào chi giao” (mối giao hảo giữa Quản Trọng và Bào Thúc Nha). Cũng chính là nói mối quan hệ rất tốt giữa Quản Trọng và Bào Thúc Nha.

Bào Thúc Nha đối xử với Quản Trọng không chỉ là có ơn tri ngộ (ơn trọng dụng) mà còn có ơn cứu mạng. Trong “Quản Yến liệt truyện” có ghi lại một đoạn tự thuật của Quản Trọng: “Ta lúc nghèo khó, đã từng buôn bán với Bào Thúc”. Nguyên gốc câu này là: Ngô thủy khốn thời, thường dữ Bào Thúc cổ (吾始困時,嘗與鮑叔賈). “Cổ” (賈) hiện tại dịch thành thương nhân, nhưng thời xưa, “cổ” và “thương” (商) là hai khái niệm khác nhau. “Thương” là chỉ người đến nơi khác buôn bán, còn “cổ” là chỉ người bán đồ ở tiệm. Do đó mới có câu “người đi là ‘thương’, người ngồi ở một nơi mà buôn bán là ‘cổ'” (hành thương tọa cổ – 行商坐賈).

Khi hai người Quản Trọng và Bào Thúc Nha cùng nhau buôn bán, mỗi lần chia tiền thì Quản Trọng thường lấy nhiều hơn một chút. Mặc dù Quản Trọng bỏ vốn rất ít nhưng ông lại lấy nhiều hơn. Bào Thúc Nha không cho rằng Quản Trọng là con người tham lam, bởi vì ông biết nhà Quản Trọng rất nghèo.

Quản Trọng đề xuất ý kiến, rằng hai người nên buôn bán thế này thế kia. Có lần ông đề xuất ý kiến ba lần và… thất bại cả ba. Nhưng Bào Thúc Nha lại không cho rằng Quản Trọng là một con người ngu xuẩn, bởi vì ông biết kế hoạch đề ra có lúc thu lợi, có lúc gặp bất lợi.

Tranh vẽ Quản Trọng và Bào Thúc Nha.

Quản Trọng đã từng phò tá ba vị đại thần, cả ba lần đều bị đuổi đi nhưng Bào Thúc Nha không cho rằng Quản Trọng là người không có tiền đồ, triển vọng; trái lại Bào Thúc Nha cho rằng vận mệnh thăng hoa con đường công danh của người bằng hữu chưa tới.

Khi đánh trận, Quản Trọng từng thất bại nhiều lần. Những lúc đó ông đều liều mạng… chạy về, hơn nữa lại quay về rất nhanh. Bào Thúc Nha không cho rằng Quản Trọng là người nhát gan. Ông biết rằng Quản Trọng còn có mẹ già, do đó người bạn của mình phải về nhà để tận hiếu…

Quản Trọng phò tá Công tử Củ, nhưng sau khi Công tử Củ thất bại và mất mệnh, Quản Trọng không những không chết theo chủ, mà trái lại ông đến phò tá cho cho kẻ địch của Công tử Củ, chính là đến chỗ Khương Tiểu Bạch (Tề Hoàn công sau này) làm Tể tướng. Bào Thúc Nha không cho rằng Quản Trọng là người vô liêm sỉ, là con người thất tiết; bởi vì Bào Thúc Nha biết rằng Quản Trọng là người có tài năng, có chí hướng, hoài bão; do đó không thể vì chủ chết mà không cống hiến tài trí để giúp nước giúp dân.

Vì Bào Thúc Nha đối xử với Quản Trọng như thế, cho nên Quản Trọng mới cảm thán mà thốt ra câu này: “Sinh ra ta là cha mẹ, nhưng hiểu ta chỉ có Bào Thúc Nha”. Khi đọc “Sử ký – Quản Yến liệt truyện”, giáo sư Chương Thiên Lượng cho rằng: Cuộc đời chỉ cần có được một tri kỷ (người hiểu mình) là đủ. Vậy thì Bào Thúc Nha quả thật là tri kỷ của Quản Trọng. Ông không chỉ có ơn tri ngộ mà còn có ơn cứu mạng đối với Quản Trọng. Rốt cuộc câu chuyện này như thế nào?

Quản Trọng bắn hạ… Công tử Tiểu Bạch

Lời bộc bạch: Chuyện kể rằng, năm 698 TCN, Tề Tương công kế vị. Tề Tương công là vị vua có đạo đức hết sức bại hoại. Ông thông gian với em gái là Văn Khương và giết chết em rể là Lỗ Hoàn công. Sau đó lại vu tội giết người cho Bành Sinh. Ông là con người không có nhân nghĩa, thêm vào đó lại đắc tội với hai vị đại thần là Liên Xưng và Quản Chí Phủ. Để rồi sau này Liên Xưng, Quản Chí Phủ và em họ của Tề Tương công là Công Tôn Vô Tri, ba người họ cùng nhau mưu phản, giết chết Tề Tương công.

Sau khi Tề Tương công bị giết, Công Tôn Vô Tri trở thành quân vương nước Tề, nhưng các bề tôi đều không phục, cho nên sau này một vị đại thần là Ủng Lẫm đã giết Công Tôn Vô Tri. Như vậy khi đó nước Tề không có quân chủ. Tề Tương công có hai người em trai, một người tên Củ, người nữa tên Tiểu Bạch. Thời bấy giờ hai người em trai thấy anh mình là Tề Tương công làm chuyện thương thiên hại lý, nên cả hai biết rằng sẽ có tai họa, do đó họ lánh nạn sang nước khác. Công tử Củ đến nước Lỗ, còn Công tử Tiểu Bạch đến nước Cử.

Lúc đó Bào Thúc Nha và Quản Trọng có thương lượng với nhau rằng: “Công tử Củ và Công tử Tiểu Bạch, hai người đó chắc chắn sẽ có một người làm vua nước Tề. Hai người chúng ta, mỗi người phò tá một vị”. Thế là Quản Trọng đến nước Lỗ phò tá Công tử Củ, còn Bào Thúc Nha đến nước Cử trợ giúp Công tử Tiểu Bạch.

Sau này khi nước Tề phát sinh nội loạn, tin tức này đều đến tai Công tử Củ và Công tử Tiểu Bạch. Thế là hai vị Công tử gấp rút tiến về đô thành của nước Tề. Bởi vì lúc này vương vị còn trống, người nào đến trước thì sẽ làm vua.

Quản Trọng biết Công tử Tiểu Bạch ở nước Cử là gần nước Tề hơn. Ông bèn mang theo binh mã đi chặn đường của Công tử Tiểu Bạch, mục đích là không cho Công tử Tiểu Bạch đến được nước Tề sớm hơn Công tử Củ. Ông đã mang binh mã đến trước mặt Công tử Tiểu Bạch, chẳng nói chẳng rằng, giương cung lắp tiễn bắn Công tử Tiểu Bạch. Mà Quản Trọng là tay thiện xạ, sau khi tên bắn ra, Công tử Tiểu Bạch hét to một tiếng, rồi thổ huyết, ngã gục trên xe.

***

Quản Trọng cho rằng mình đã bắn hạ được Tiểu Bạch nên khi trở về ông nói với Công tử Củ: “Chúng ta không cần gấp, chứ thong thả mà đi, dù thế nào thì Công tử Tiểu Bạch đã bị tôi bắn hạ rồi”. Rốt cuộc tính mạng của Khương Tiểu Bạch tức Tề Hoàn công sau này như thế nào, và con đường công danh của Quản Trọng ra sao, kính mời quý độc giả đón xem phần tiếp theo.

Theo bài viết của Giáo sư Chương Thiên Lượng, NTDTV
Mạn Vũ biên dịch

Ghi chú:

(1) Thế gia: chuyện về các Chư hầu trong “Sử ký”.

(2) Thái công là cách gọi tôn kính người lớn tuổi.

(3) Gọi là Tây Chu vì thời đó nhà Chu định đô ở Cảo Kinh. Mà vị trí của Cảo Kinh là ở gần phía tây khu Tây An, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc; tức là phía tây của Trung Quốc.

(4) Cũng có bản dịch là Bão Thúc Nha.