Lời tòa soạn: Các dân tộc Á Đông có một nền văn minh vô cùng xán lạn. Lịch sử Á Đông nói chung, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam, rất hào hùng, tràn đầy khí chất. Lịch sử 5000 năm văn minh, văn hoá của Á Đông là cả một kho tàng vô giá cho hậu thế. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những quan niệm mới có phần thiên kiến, lệch lạc, lịch sử ấy đã bị cải biên và ngụy tạo nhiều. Với mong muốn phục hưng lại nền văn minh vĩ đại cũng như những truyền thống đạo đức quý báu của người Á Đông, chúng tôi tiến hành loạt bài về lịch sử Việt Nam, Trung Hoa… gửi đến quý độc giả, ngõ hầu phá giải được những quan niệm sai lệch hiện nay.

Trong lịch sử Trung Hoa có ‘loạn 7 nước Ngô – Sở’ thời Hán Cảnh Đế, ‘loạn bát vương’ thời Tây Tấn, ‘loạn An Sử’ thời nhà Đường’, ‘loạn Tam Phiên’ thời nhà Thanh v.v… Tuy nhiên, từ nhà Tần kéo dài mãi đến hơn 2000 năm về sau, chỉ có một số cuộc nổi loạn, còn trên cơ bản thì chế độ ‘quận huyện’ do Tần Thủy Hoàng thiết lập đã làm xã hội ổn định hơn

Lời bạch: Thời kỳ Đông Chu liệt quốc, chế độ ‘thế khanh thế lộc’ tan vỡ, chế độ ‘quan liêu’ (quan lại) dần dần hình thành. Chế độ chính trị quốc gia cũng từ ‘phân đất phong hầu’ (phân phong – 分封) của triều đại nhà Chu diễn biến thành chế độ ‘trung ương tập quyền’ của triều đại nhà Tần. Chúng ta thấy rằng, nếu Tần khôi phục hoàn toàn chế độ cũ hoặc khôi phục một phần, thì sẽ dẫn đến chiến loạn như thời kỳ Chiến Quốc.

Chúng ta nói một chút về Văn học và Triết học. Xuân Thu – Chiến Quốc cũng là thời kỳ quan trọng của lịch sử Văn học. Vào thời Xuân Thu, đã bắt đầu xuất hiện tổng tập thơ ca đầu tiên của Trung Quốc do Khổng Tử tổng hợp một cách có hệ thống, đó chính là “Kinh thi”. Kinh thi có tổng cộng 305 bài thơ, phân thành: Phong, Tiểu nhã, Đại nhã và Tụng. Nó chính là ca khúc được hát khi tế tự trong cung đình hoặc dân gian. Hình thức văn học thời Xuân Thu chính là Kinh thi.

Kinh thi tuy có 305 bài thơ nhưng chúng ta lại không biết tác giả là ai. Bởi vì kinh tế thời Xuân Thu là kiểu ‘trang viên’, chính là ở tại vùng nông thôn rộng lớn, rất nhiều người sau khi sáng tác bài ca xong, họ dùng phương thức truyền xướng để lưu truyền, mọi người đều hát, còn như ca từ do ai viết thì họ không truyền lại. Khổng Tử lấy những ca khúc đó sưu tập, chỉnh lý thành “Kinh thi”.

Đối với Kinh thi, Khổng Tử có tổng kết như sau: “Thi kinh có 300 bài, nhưng chỉ một lời thâu tóm được tất cả, chính là: không nghĩ tà“. Chính là nói trong Kinh thi tuy có những phương diện liên quan đến chính trị, tế tự, tình yêu nam nữ… nhưng những bài ca đó hát lên không có chút gì là tà niệm.

Đến thời Chiến Quốc thì đã khác. Thời Chiến Quốc xuất hiện một lượng lớn đô thị, đô thị hưng khởi, khiến rất nhiều nhân sĩ tập trung nơi đó. ‘Sĩ’ là cấp quý tộc thấp nhất, họ không có nhiều tiền, nhưng họ có may mắn nhận được quyền lợi giáo dục, cho nên nhân sĩ ôm giữ một sở trường nhất định.

Nhân sĩ ôm giữ sở trường bắt đầu chu du giữa các nước, xem quốc gia nào có cơ hội để lập thân. Cho nên thời Chiến Quốc xuất hiện một hiện tượng gọi là ‘dưỡng sĩ’ (nuôi kẻ sĩ). Tín Lăng Quân của nước Nguỵ, Bình Nguyên Quân của nước Triệu, Xuân Thân Quân của nước Sở, Mạnh Thường Quân của nước Tề, bao gồm cả Lã Bất Vi sau này v.v.. những vị này đều là ‘dưỡng sĩ’.

Nhân sĩ về phương diện văn học khá tốt gọi là văn sĩ, võ công tốt gọi là võ sĩ, có tài ăn nói gọi là biện sĩ, đưa mưu lược – vạch kế sách gọi là mưu sĩ. Tính lưu động của những nhân sĩ này rất cao, năng lượng vô cùng lớn, trong đó có một nhóm người bắt đầu ‘viết sách và lập ra học thuyết’ (Trứ thư lập thuyết – 著書立說), sau đó biện luận với nhau, đây chính là thời kỳ ‘trăm nhà đua tiếng’ (Bách gia tranh minh – 百家爭鳴) cuối thời Xuân Thu và trong thời kỳ Chiến Quốc.

Trước lúc ‘trăm nhà đua tiếng’, những điều có thể ghi lại ở Trung Quốc trên cơ bản là hình thức thi ca, giống như ‘Kinh thi’, bao gồm ‘Chu dịch’, ‘Thượng thư’ v.v. Những điển tịch cổ đại này trên cơ bản dùng thơ hoặc hình thức tản văn (văn xuôi) rất ngắn để ghi chép lại.

Nhưng thời Chiến Quốc, do sự hưng khởi của đô thị, sự tập hợp của nhân sĩ, cùng với sự đòi hỏi của ‘trăm nhà đua tiếng’, đã khiến cho tản văn của Chư tử (1) thời tiên Tần vô cùng phát triển. Nếu đọc lịch sử văn học Trung Quốc, chúng ta có thể thấy rằng sự phát triển của tản văn bắt đầu vào cuối thời Xuân Thu, hoặc đầu thời Chiến Quốc.

Do đó khi đọc “Cổ văn quan chỉ”, chúng ta thấy rằng những bài văn được tuyển chọn đầu tiên xuất hiện trong “Tả truyện”, sau đó đến “Luận ngữ”, tiếp đến là “Chiến Quốc sách”, “Sử ký”, đây là tản văn của Chư tử thời tiên Tần. Những tác phẩm này ảnh hưởng to lớn đến cách viết của thế hệ sau này, bao gồm cả cách dùng từ. Giống như Tư Mã Thiên, ông chịu ảnh hưởng rất lớn từ Chư tử thời tiên Tần.

Đồng thời cũng do đô thị hưng khởi, một số người có tài văn chương được người khác chấp nhận sau đó truyền bá tác phẩm của họ ra ngoài. Điều này không giống thời Xuân Thu trong quá khứ – là hình thức ‘trang viên’, thông qua hình thức xướng ca để lưu truyền.

Do đó thời Chiến Quốc đã xuất hiện nhà thơ có danh tính (tên-họ) đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, người ấy là Khuất Nguyên. ‘Sở từ’ mà Khuất Nguyên viết, thể văn đó chính là khởi xướng cho nền văn học thời Xuân Thu – Chiến Quốc trong lịch sử. ‘Sở từ’ và tản văn trong thời Xuân Thu – Chiến Quốc sau này trở nên vô cùng phát triển.

Về phương diện triết học, Chư tử thời tiên Tần lưu lại rất nhiều các chủng các dạng học thuyết, cũng có thể nói đó là những tư tưởng triết học. Lịch sử triết học Trung Quốc, tư tưởng triết học là phân loại dựa theo triều đại lịch sử: Tiên Tần tử học, Lưỡng Hán kinh học, Nguỵ Tấn huyền học, Tuỳ Đường Phật học và Tống Minh lý học. Trừ Phật học là từ Ấn Độ truyền đến, các học thuyết còn lại ta có thể tìm thấy hình ảnh của một số tư tưởng của Chư tử thời tiên Tần của Trung Hoa xưa.

Nếu chúng ta đọc “Trung Quốc triết học giản sử”, sẽ phát hiện có một nửa cho đến 2/3 nội dung đề cập đến tư tưởng của Chư tử thời tiên Tần. Tư tưởng của các vị ấy ảnh hưởng cực lớn đến một số triết học gia sau này.

Đoạn lịch sử này, từ phương diện quân sự thì nó là một thời kỳ vô cùng quan trọng trong lịch sử. Từ phương diện chính trị, nó chuyển từ chế độ ‘thế khanh thế lộc’ sang chế độ ‘quan liêu’, từ ‘phân đất phong hầu’ sang ‘trung ương tập quyền’. Về văn học là sự phát triển của tản văn. Về triết học là sự xuất hiện Chư tử thời tiên Tần. Do đó đoạn lịch sử này – biến cục của 500 năm, là một thời kỳ vô cùng lớn, vô cùng quan trọng trong lịch sử 5000 năm Trung Hoa.

Sau triều Hán, Nho gia trở thành học vấn được công nhận chính thức. Học vấn Nho gia vì sao được công nhận chính thức? Trong “Trung Quốc triết học giản sử” có giải thích – giáo sư Chương cảm thấy rất có lý. Trong đó nói rằng, Trung Quốc là nền văn minh nông canh, nghĩa là lấy nông nghiệp để kiến lập đất nước, lấy nông nghiệp làm cơ sở để phát triển và sinh sống. Văn minh nông canh không giống với văn minh thương nghiệp của Hy Lạp cổ đại, cũng không giống với người Hung Nô vốn dĩ là dân tộc du mục.

Giữa văn minh nông canh của địa khu Trung Nguyên và dân tộc du mục của Hung Nô có một ranh giới tự nhiên. Giới hạn này chính là lượng mưa hàng năm liệu có vượt qua 400 mm hay không, nếu vượt qua 400 mm thì nơi ấy thích hợp cho nông canh, dựa vào nông nghiệp để nuôi sống nhân khẩu nơi ấy.

Nếu lượng mưa hàng năm dưới 400 mm thì phù hợp để phát triển nghề chăn nuôi. Dân tộc du mục định cư dựa vào nước và cỏ; năm nay chỗ này có hạn hán, còn nơi khác dồi dào cỏ và nước, thế là họ bèn đem toàn bộ gia sản chất lên xe di chuyển đến nơi có cỏ, nước dồi dào để chăn thả súc vật.

Do đó, người Mông Cổ sống theo kiểu du mục, như vậy thuận tiện cho việc di dời. Nhưng vì họ thường xuyên phải di dời, nên giáo dục trở thành một vấn đề, nền văn minh ấy không dễ truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vì vậy, người Hung Nô hay các dân tộc thiểu số khác, trình độ văn minh của họ thấp hơn trình độ của nền văn minh nông canh. Do đó người Trung Quốc coi họ là ‘mọi rợ’, phía đông gọi là Di, phía tây gọi là Nhung, phía nam gọi là Man, phía bắc gọi là Địch, khái niệm ‘Đông Di – Tây Nhung – Nam Man – Bắc Địch’ chính từ đây mà ra. Người Trung Quốc không thừa nhận họ (các dân tộc kia) là dân tộc Hoa Hạ.

Ranh giới giữa nền văn minh nông canh và nền văn minh du mục của Hung Nô ngoài giới hạn về lượng mưa một năm là 400 mm ra, còn có một công trình nhân tạo do Tần Thuỷ Hoàng xây dựng, đó chính là Vạn Lý Trường Thành. Ngoài Vạn Lý Trường Thành, trên cơ bản thuộc về dân tộc du mục, không thích hợp cho trồng trọt; bên trong Vạn Lý Trường Thành thích hợp cho trồng trọt, thuộc về nền văn minh nông canh.

Quá khứ có một cách nói ‘canh độc truyền gia’ (耕讀傳家), nghĩa là lúc cần làm nông thì làm, còn có thời gian nông nhàn, lúc mùa đông thì ở nhà đóng cửa đọc sách, vì vậy có lợi cho truyền thừa nền văn minh. Hơn nữa, vì không phải di chuyển nên người trong gia tộc đời này qua đời khác sống tại nơi đó.

Do vậy thời Trung Quốc cổ đại, gia tộc lớn sống quần tụ với nhau, trong gia tộc có nhiều mối quan hệ cần xử lý. Ví như nói quan hệ cha – con, quan hệ anh – em, quan hệ giữa các chị em dâu, v.v… rất nhiều mối quan hệ cần được xử lý, do đó cần một bộ luân lý để duy trì gia đình. Mà Nho gia là học thuyết rất thích hợp để duy trì luân lý gia đình. Ví như Nho gia đề xướng: phụ thân phải ‘từ’ (hiền từ), con phải hiếu, giữa huynh đệ với nhau phải ‘hữu ái’ (hữu hảo hoà ái).

Vậy thì Nho gia lấy luân lý gia đình khuếch đại ra xã hội, chính là lấy quân vương so sánh thành cha, đại thần là con, do đó nói là ‘vua như cha’ (quân như phụ), thần chính là ‘thần tử’ (臣子).

Luân lý gia đình ‘phụ từ tử hiếu’ (cha hiền con hiếu) khuếch đại ra xã hội sẽ thành: quân vương nên ‘nhân’ (仁: nhân nghĩa, nhân đức), đại thần nên ‘trung’ (忠: trung thành). Do đó ‘quân nhân thần trung’ (vua nhân từ, thần trung thành) sẽ đối ứng với ‘phụ từ tử hiếu’ (cha hiền con hiếu).

Giữa anh em với nhau trong gia đình nên phải ‘hữu ái’, khuếch đại điều này ra xã hội thì chính là ‘tứ hải giai huynh đệ’ (bốn bể đều là anh em).

Xử lý quan hệ với người khác trong xã hội cũng giống như xử lý mối quan hệ anh – em trong gia đình. Chúng ta giảng về ‘nghĩa’ cũng vậy, hoặc miêu tả những thứ khác, giá trị quan của mối quan hệ anh – em cũng là từ luân lý gia đình khuếch đại ra xã hội mà ra.

Do đó đây chính là vì sao văn hoá của Nho gia rất dễ được xã hội tiếp nạp, bởi vì nó vốn dĩ ở trong gia đình, nên mọi người đã tiếp nhận đã quen rồi, chẳng qua là lấy điều đó khai triển ra quốc gia xã hội mà thôi. Quá trình này vô cùng tự nhiên.

Đương nhiên trong một gia đình, địa vị của người cha cao hơn người con. Con từ khi sinh ra chính là nghe lời cha. Sau khi lớn lên, nếu cha còn tại thế, phải hiếu kính và nghe lời phụ thân. Trong gia đình như vậy, đã có một sự phân cấp tự nhiên, địa vị của người cha đương nhiên cao hơn người con.

Quan niệm phân cấp này mở rộng ra toàn xã hội sẽ biến thành: địa vị quân vương đương nhiên cao hơn đại thần. Cho nên đây chính là nguyên nhân trong “Trung Quốc triết học giản sử” giải thích vì sao văn hoá Nho gia sau trở thành học vấn quan viên, đồng thời cũng được xã hội và người chấp chính đương thời tiếp nhận.

Trong “Trung Quốc triết học giản sử” còn đưa ra một ví dụ về sự khác nhau của văn minh nông canh và văn minh thương nghiệp của Hy Lạp, đồng thời lý giải vì sao Hy Lạp cổ đại là chế độ dân chủ thành thị – bang quốc (thành bang – 城邦).

Bởi vì khi đó Hy Lạp là một ‘thành bang’ rất nhỏ rất nhỏ, mọi người đến làm ăn không ai biết ai cả. Vậy thì rất khó nói rằng địa vị người A cao hơn người B (2). A và B đã là bình đẳng, thế thì nếu quyết định một sự việc, chỉ có thể là mọi người thương lượng với nhau. Đây chính là một loại chế độ dân chủ nguyên thuỷ. Mọi người đến thảo luận giải quyết như thế nào, điều này đã biến thành chế độ dân chủ ‘thành bang’ của Hy Lạp cổ đại.

Còn văn minh nông nghiệp của Trung Quốc, do thứ tự tự nhiên trong đại gia tộc đã có sẵn, điều này đem đến một loại luân lý về quân – thần, phụ – tử mà Nho gia đề xướng sau này.

Gia tộc của Trung Quốc rất lớn. Cuốn sách giống như từ điển xuất hiện rất sớm ở Trung Quốc gọi là “Nhĩ Nhã”. Trong đó đề cập đến quan hệ gia tộc, đại khái có… hơn 100 loại quan hệ, giống như mối quan hệ cha – con, cậu với cháu ngoại, chú với cháu trai, những gì như bá phụ (bác), chị em dâu, ‘anh em cột chèo’ (liên khâm – 連襟), có rất nhiều rất nhiều từ về mối quan hệ trong gia đình như thế. Ở phương tây không tìm thấy phiên dịch đối ứng với những từ này. Những từ ở trên là đặc điểm rất lớn của văn minh Trung Quốc, văn minh châu Á.

Chú thích:
(1) Chư tử: Chỉ chung các bậc học giả, có viết sách để truyền bá học thuyết của mình. Như Lão Tử, Khổng Tử, Mạnh Tử v.v.
(2) Nguyên gốc là Trương Tam, Lý Tứ: ở đây là cách nói của người Trung Quốc.

Theo Epoch Times
Mạn Vũ biên dịch