Có bài thơ rằng:
“Sông Đằng một dải dài ghê
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông
Những người bất nghĩa tiêu vong
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh”
(Bạch Đằng Giang Phú – Trương Hán Siêu)
Lịch sử như dòng sông dài cuốn đi trong lớp sóng của nó bao nhiêu sự tích, chiến công, thành bại của cả một dân tộc. Thế kỷ 21 hiện đại với quá nhiều thú vui và dục vọng, mấy ai còn lưu tâm đến những huy hoàng của quá khứ, những tinh hoa của cổ nhân hay những bài học sâu sắc từ ngàn xưa?
Việt Nam 4.000 năm văn hiến với nhiều triều đại kiệt xuất thấm đẫm văn hóa Phật Đạo Thần đã đem đến cho dải đất xinh đẹp này biết bao nhiêu kỳ tích và truyền kỳ vẫn còn rọi sáng đến tận hôm nay. Chúng tôi tiến hành loạt bài viết về lịch sử Việt Nam mong muốn đem đến cho quý độc giả một góc nhìn mới về sử Việt, chính là ôn cũ biết mới, ngẫm chuyện xưa nhìn chuyện nay, tự đúc rút cho mình những trải nghiệm riêng.
Trong lịch sử bang giao Việt Nam – Trung Hoa, chỉ có 4 vị đại khoa được công nhận là “Lưỡng quốc Trạng nguyên”. Ngoài Mạc Đĩnh Chi đã quá nổi tiếng thì có lẽ Nguyễn Đăng Đạo là một ông Trạng có nhiều giai thoại thú vị nhất.
Nguyễn Đăng Đạo (1651–1719) là một trong số rất ít Trạng nguyên làm quan tới chức Tể tướng thời Lê Trung hưng. Dân gian còn gọi tên ông là Trạng Bịu. Đăng Đạo người xã Hoài Bão (có tục danh là làng Bịu), tổng Nội Duệ (nay là xã Liên Bão, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh). Thân phụ ông là tiến sĩ Nguyễn Đăng Minh, giữ chức Quốc Tử Giám tế tửu triều Lê. Ông còn là cháu ruột của thám hoa Nguyễn Đăng Cảo, em trai Nguyễn Đăng Tuân.
Tinh tú chuyển sinh, thông minh tuyệt đỉnh
Đất Kinh Bắc, xứ quan họ nghìn năm văn vật, quê hương của Nguyễn Đăng Đạo, là vùng đất nhuốm đầy văn hóa thần thoại với nhiều sự tích thần tiên giáng trần du ngoạn. Đó là một nơi thiên nhiên hữu tình với bao câu chuyện đẹp như Từ Thức – Giáng Hương trên núi Phật Tích, Vương Chất gặp tiên ở núi Tiên Du, hay những lời ca quan họ tình tứ đắm say…
Do đó cũng không lạ lùng gì khi ngay từ lúc chào đời, Nguyễn Đăng Đạo đã có một lai lịch nhuốm màu huyền thoại. Một đêm mùa hạ trăng sáng, mẹ của ông là bà Ngọc Nhĩ nằm mộng ra giếng lấy nước, sao sa xuống thùng nước, bà bèn lấy khăn bịt lại mang về. Hôm sau, nghe kể lại, thám hoa Nguyễn Đăng Cảo khuyên bà nên lấy thùng ấy để chứa nước dùng. Ít lâu sau, quả nhiên bà mang thai.
Xuất thân trong gia đình đại Nho, dòng dõi khoa bảng danh tiếng, dĩ nhiên Nguyễn Đăng Đạo có một nền tảng tốt phi thường để sau này đỗ đạt công danh. Nhưng mọi việc trên đời đều không ngẫu nhiên. Ông có tài học siêu phàm trác tuyệt và được sinh ra trong gia đình đại Nho có lẽ đều là sự sắp đặt của ý Trời.
Phật – Đạo – Thần đều không phải là điều gì huyền hoặc, đều có thật, chỉ là con người không nhìn thấy. Vì bản thân ông mang theo sứ mệnh nên rất có thể là một vì tinh tú nào đó chuyển sinh thực sự. Những giai thoại trong đời Nguyễn Đăng Đạo sẽ giải mã phần nào sứ mệnh đặc biệt mà trời cao đã an bài cho ông.
Thần đồng 3 tuổi kinh động sứ đất Bắc
Người xưa rất coi trọng thuyết thiên mệnh. Tất cả những gì con người có được trên đời là do Trời định. Ngay từ cái tên Đăng Đạo nghĩa là con đường đỗ đạt, cũng hé lộ một phần thiên cơ. Ông chính là Trạng nguyên tương lai như người xưa vẫn hay nói: “Cái tên vận vào đời người”.
Sinh thời, bác ông là Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo rất yêu quý đứa cháu ruột, thường hay ẵm bế, lại vỗ bụng chú bé Đạo mà nói: “Triều đình ghét ta không lấy cho đỗ Trạng nguyên chứ như thằng nhỏ này, dù muốn không cho cũng không được”. Quả nhiên lời ông bác vận đúng vào học vị đứng đầu tam khôi của đứa cháu yêu.
Không những thế, khi cậu bé mới được khoảng 3, 4 tuổi, Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo khi đón tiếp sứ Trung Hoa ở cửa ải còn đem cả Đăng Đạo đi theo. Cậu bé mới 3, 4 tuổi trải qua thiên sơn vạn thủy mà vẫn nói năng đối đáp bình thường với sứ thần Trung Hoa. Sứ nhà Thanh vốn giỏi tướng số, trông thấy thần tướng chú bé họ Nguyễn Đăng tóc để chỏm đào, bèn nói:
“Thiên sơn vạn thủy, lam chướng bất xâm, chân kỳ đồng dã” (tức là: Dặm ngàn non nước mà lam chướng không xâm phạm nổi, thì cũng là đứa trẻ quá lạ). Đó cũng chính là ý của đôi câu đối tại nhà thờ Nguyễn Đăng Đạo ngày nay: “Tam tuế kỳ đồng kinh sứ Bắc. Thập niên tể tướng trọng triều Nam”.
Tài cao Bắc Đẩu mà cũng liều lĩnh đệ nhất
Từ khi còn nhỏ, Nguyễn Đăng Đạo đã tỏ rõ là một bậc tài năng hơn người, tính khí lại phóng túng, không chịu gò vào khuôn phép, chẳng kiêng nể quyền thế. Có dạo vào dịp mùa đông trời rét mướt, ông vào trong chiếc cầu “Thượng gia hạ kiều” ở gần làng đánh một giấc nồng. Đương lúc say mộng, có viên quan huyện đi qua, Đăng Đạo chẳng buồn dậy chào. Lấy làm phật ý, quan huyện mới chau mày, hỏi:
– Ngươi là ai mà vô lễ thế, thấy bản chức đến mà không đứng lên thi lễ?
Khi nghe Đăng Đạo trả lời là học trò trong huyện, lạnh quá nằm co nên không kịp dậy chào, viên huyện quan bảo:
– Được, đã là học trò thì phải xem chữ nghĩa thế nào. Làm cho ta bài thơ có đề tài “rét nằm co” xem nào.
Chẳng ngần ngại, Đăng Đạo ứng khẩu thành lời:
Vi vu gió thổi, bụi lầm đường
Rét phải nằm co, há phải cuồng!
Cá chửa giương vây miền Bắc Hải
Rồng còn cuộn khúc bãi Nam Dương
Cất đầu ngóng đợi kiền khôn đế
Uốn gối mong chầu cảnh thổ vương
Bĩ hệ cực rồi, rồi đến thái
Sang xuân đầm ấm lại nghênh ngang
Nghe khẩu khí bài thơ, viên quan huyện vốn dân chữ nghĩa, cảm được, tấm tắc khen tài ông và bỏ qua cho tội vô lễ.
Yêu ai thì phải trèo tường…
Ngoài chuyện danh vọng, khoa cử được nói tới ở trên, đường tình duyên của trạng Bịu cũng có điều khác lạ. Điều này trong “Lan Trì kiến văn lục” của Tri phủ Quốc Oai Vũ Trinh (1759 – 1828) có ghi lại khá cụ thể thể. Dạo ấy, gặp dịp Tết Nguyên Tiêu, Nguyễn Đăng Đạo mặc áo nhà nho đạm bạc, cùng hai kẻ tiểu đồng và nhóm bạn đi thăm kinh thành.
Đến cổng chùa Báo Thiên bỗng đâu bắt gặp một chiếc kiệu hoa, nữ tì, lính lệ theo hầu. Bước xuống kiệu là một mỹ nhân mặt hoa da phấn, vẻ đẹp mặn mà. Nguyễn Đăng Đạo ngây người ra ngắm nàng, quên cả ngắm cảnh. Người đẹp vào chùa hồi lâu rồi ra, lại lên kiệu mà đi. Nhưng ông trạng tương lai vẫn cứ bồi hồi đứng trước kiệu, lính lệ quát tháo, giơ roi đòi đánh mà Đăng Đạo cũng chẳng màng tới. Trong kiệu, tiếng người thiếu nữ ấy cất lên:
– Hội vui cảnh đẹp, mọi người cùng du chơi thưởng ngoạn, các ngươi chớ có nạt nộ người ta như thế.
Lại bảo quân khiêng kiệu dẹp đường mà đi. Đăng Đạo thấy thiếu nữ vừa đẹp người, lại hay nết, cứ thế đi theo đến mấy dặm. Đến khi phu khiêng kiệu vào một dinh thự lớn, ông mới dừng bước, lại vào quán nước ngoài cổng, lân la hỏi bà chủ quán, được biết:
– Đây là dinh nhà Võ quan Ngô Hiến hầu. Hầu vì có công lớn được cử coi cấm binh, chỉ huy việc quân cả kinh thành.
Lại biết được Ngô Hiến hầu chỉ có mỗi mụn con gái là thiếu nữ vừa gặp, nhan sắc xinh tươi hiếm ai bì kịp, giỏi chữ nghĩa, đến tuổi cập kê rồi mà chưa lấy ai.
Từ ấy, về xóm trọ, Nguyễn Đăng Đạo cả đêm mơ tưởng đến người đẹp. Đến sáng mai, ông lại tới cổng nhà quan họ Ngô, tìm cách đánh bạn được với đứa hầu nhỏ, hay mang tiền và quà bánh cho nó. Khi đã quen thân, ông hỏi kỹ đường ra lối vào, cổng cửa các phòng trong dinh, ghi lại trong dạ cho thật nhớ.
Đêm hôm ấy, ông ăn mặc gọn ghẽ, vượt mấy lớp tường, lần thẳng đến chỗ buồng người đẹp, khoét tường chui vào buồng cô gái, rồi lay cô dậy. Đang say giấc nồng, giật mình tỉnh giấc thấy có người lạ trong phòng, nhưng cô gái không lấy thế làm hoảng hốt, mới hỏi ông. Đăng Đạo tỏ hết lòng dạ mình:
– Từ bữa gặp nhau ở chùa, tôi trằn trọc thương nhớ khôn nguôi, định tìm mai mối, lại sợ làm nhơ đến quan tể tướng, chưa chắc được ngài đoái hoài tới. Nay cả gan ở đây, định đính ước trăm năm với tiểu thư đây.
Người đẹp cả thẹn mà rằng:
– Quân canh bao nhiêu lớp, lầu các sâu thăm thẳm, ông làm sao vào đây được? Cha tôi tính nóng như lửa, ông sẽ bị băm vằm thành bùn cho mà xem.
Đăng Đạo cả cười. Cô gái không biết thế nào, lấy hai tấm lụa trao cho ông, lại tiếp:
– Ông chết cũng đáng. Nhưng nếu để người ta biết thì tiết hạnh của tôi cũng mang vết. Cho ông cái này, nhân lúc bọn đầy tớ cha tôi chưa biết, mau tìm đường mà đi.
Nguyễn Đăng Đạo lại cười mà nói:
– Nàng đừng đem cái chết dọa ta. Nếu sợ chết, ta đã không đến đây. Nếu đại nhân có tới, tôi cũng thành thực mà thưa, cớ sao đem cái chết ra dọa nhau?
Giọng Đăng Đạo to như trống, làm bọn đầy tớ thức giấc, ùa đến bắt ông. Kẻ đánh, người trói mà Đăng Đạo si tình cứ nói cười không thôi. Ngô Hiến hầu hay biết, đùng đùng nổi giận. Nhưng thấy ông mặt mũi nho nhã, nói năng đàng hoàng, thẳng thắn thì không nỡ đánh đập, cho người giải đến quân trướng, dùng quân pháp luận tội.
May sao, lúc ấy có quan đồng liêu họ Phạm làm ở Nội viên đến thăm biết việc, nói với Hiến hầu:
– Kẻ làm việc phi thường ắt có tài khác thường. Tên này chắc có tài cán, hoài bão gì đây. Chi bằng xem nó có tài gì không. Nếu có thì nhân đó tác thành cho nó. Còn là loại côn đồ thì đánh chết chưa muộn.
Nghĩ thế cũng hợp lý, Ngô Hiến hầu cho gọi ông vào, bắt làm văn để thử tài. Nhận được đề, chẳng cần suy nghĩ, Đăng Đạo hạ bút viết liền một mạch xong ngay, lại tự tin bảo bọn người hầu:
– Bay đi nói với tiểu thư sửa soạn cơm nước, nếu có chút khinh lờn là ta nhất định không làm khách quý nhà các người nữa.
Bọn hầu nghe thế bưng miệng cười, ngẫm đây là kẻ ngông cuồng. Bài làm xong trình lên, quan họ Phạm bạn đồng liêu với Ngô Hiến hầu đọc xong, hết lời ngợi khen, nói riêng với quan võ:
– Ngàn vàng cũng chẳng tìm được đứa rể quý như thế đâu!
Thấy tên đục tường, khoét vách giỏi văn chương, thơ phú, Ngô Hiến hầu lệnh tha tội cho, hỏi quê quán, họ tên, làm phòng riêng cho ở, cấp dầu đèn cho học. Năm sau, Nguyễn Đăng Đạo đi thi đỗ đầu kỳ thi Hương, được Ngô Hiến hầu đón về ở rể, tác thành nhân duyên phu phụ với con gái mình.
Vài năm sau, Đăng Đạo thi Đình, đỗ thứ nhất. Trong “Đại Việt sử ký tục biên” cho biết: “Mùa xuân, tháng Giêng, thi Đình. Cho Nguyễn Đăng Đạo, Phạm Quang Trạch, Quách Giai ba người đỗ tiến sĩ cập đệ, Nguyễn Đương Hồ tiến sĩ xuất thân (hoàng giáp); bọn Trần Thiện Thuật 14 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân”.
Về sau, hai vợ chồng Nguyễn Đăng Đạo ăn ở với nhau hết nghĩa. Người đẹp con quan Hiến hầu năm nào không phụ lòng thương yêu của chồng, xứng với nghĩa phu thê.
Xét về đạo đức của nhà Nho thì việc trèo tường vào khuê phòng con gái người ta thật cũng chẳng quang minh chính đại gì. Nhưng Đăng Đạo hơn người ở chỗ là nam thanh niên huyết khí phương cương, đã vào tận buồng khuê mà vẫn giữ tinh thần sáng suốt, nói năng đàng hoàng, bày tỏ tấc lòng thành chứ không phải hạng người bị dẫn động bởi dục vọng mà mù quáng làm liều, gây chuyện nhơ nhuốc.
Người quân tử khó nhất chính là giữ vững đức hạnh ở những nơi không ai nhìn thấy thì ông đã làm rất tốt vậy. Nhưng Ngô Hiến Hầu mới là người có phong độ quân tử đức cao vọng trọng. Thân là tướng quân, vốn nóng tính và hay giết người nhưng ông đã kiềm chế được bản thân không vì cơn giận mù quáng mà hại kẻ dám xâm phạm con gái yêu. Chính vì đức nhẫn ấy mà kết cục tốt đẹp viên mãn đã đến với ông, con gái và cả chàng rể Trạng nguyên tương lai kia. Quả thật là trên đời này ăn ở tử tế, thiện lương chính là biện pháp bảo hộ tốt nhất cho đời người ta vậy.
(Còn nữa)
Tĩnh Thủy
Xem thêm:
- Vị Trạng nguyên nổi tiếng bậc nhất sử Việt, làm rạng danh nước Nam giữa đất Trung Hoa (Kỳ 1)
- Vị tướng quân phong lưu tài tử bậc nhất sử Việt, một đời khí phách rọi nghìn thu (Kỳ 2)
- Khi đức Phật hạ thế, làm cách nào để nhận ra Ngài?