Việc một vị vua – người đứng đầu của đất nước lại quyết định gả chồng cho vợ cũ được xem là một câu chuyện bi hài nhưng có thật trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Lý Chiêu Hoàng được coi là vị nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử Việt Nam, có tên húy là Lý Phật Kim, là con gái thứ hai của vua Lý Huệ Tông và hoàng hậu Trần Thị Dung. Lý Chiêu Hoàng sinh năm 1218, vào thời điểm vương triều nhà Lý đã bước vào thời suy tàn. Ông nội bà là Lý Cao Tông, vốn nổi tiếng là một vị vua ăn chơi sa đọa, không chăm lo cho đời sống của người dân. Cha bà là Lý Huệ Tông bị phát bệnh điên, mọi việc chính sự đều do Trần Tự Khánh quản.
Lý Huệ Tông không có con trai nên Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ (người nắm quyền sau khi Trần Tự Khánh chết) đã ép vua lập Lý Chiêu Hoàng làm Hoàng Thái nữ rồi truyền ngôi. Như vậy, Chiêu Hoàng lên ngôi khi mới chỉ là đứa trẻ 6 tuổi và kể từ đây, những sóng gió cũng bắt đầu phủ lên vị nữ hoàng nhỏ tuổi này.
Năm 1225, Trần Thủ Độ sắp xếp cho cháu mình là Trần Cảnh vào cùng làm Chính thủ, hầu hạ Chiêu Hoàng. Trần Cảnh chạc tuổi với Lý Chiêu Hoàng, lại được vua yêu mến, hay gần gũi và trêu đùa. Trần Thủ Độ thấy vậy bèn dựng nên cuộc hôn nhân giữa Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh, từ đó chuyển giao quyền lực chính trị bằng cách nhường ngôi danh chính ngôn thuận cho chồng. Về việc này, “Đại Việt sử ký toàn thư” có chép như sau:
“Tháng ấy, ngày 21, các quan vào chầu lạy mừng. Xuống chiếu rằng:
“Từ xưa nước Nam Việt ta đã có đế vương trị thiên hạ. Duy triều Lý ta vâng chịu mệnh trời, có cả bốn biển, các tiên thánh truyền nối hơn hai trăm năm, chỉ vì thượng hoàng có bệnh, không người nối dõi, thế nước nghiêng nguy, sai trẫm nhận minh chiếu, cố gượng lên ngôi, từ xưa đến giờ chưa từng có việc ấy. Khốn nổi trẫm là nữ chúa, tài đức đều thiếu, không người giúp đỡ, giặc cướp nổi lên như ong, làm sao mà giữ nổi ngôi báu nặng nề? Trẫm dậy sớm thức khuya, chỉ sợ không cáng đáng nổi, vẫn nghĩ tìm người hiền lương quân tử để cùng giúp chính trị, đêm ngày khẩn khoản đến thế là cùng cực rồi, Kinh thi có nói “Quân tử tìm bạn, tìm mãi không được, thức ngủ không nguôi, lâu thay lâu thay”. Nay trẫm suy đi tính lại một mình, duy có Trần Cảnh là người văn chất đủ vẻ, thực thể cách quân tử hiền nhân, uy nghi đường hoàng, có tư chất thánh thần văn võ, dù đến Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông cũng không hơn được. Sớm hôm nghĩ chín từ lâu nghiệm xem nên nhường ngôi báu, để thỏa lòng trời, cho xứng lòng trẫm, mong đồng lòng hết sức, cùng giúp vận nước, hưởng phúc thái bình. Vậy bố cáo thiên hạ để mọi người điều biết”.”
Sau khi truyền ngôi cho Trần Cảnh (Trần Thái Tông), mở ra một thời đại mới trong lịch sử Việt Nam, Chiêu Hoàng được phong làm Hoàng hậu, đổi hiệu thành Chiêu Thánh. Năm 14 tuổi, Chiêu Thánh sinh con trai đặt tên là Trần Trịnh nhưng lại mất ngay sau đó. Nỗi đau đó khiến Chiêu Thánh đau ốm liên miên và suốt 5 năm tiếp theo, bà vẫn không thể sinh con nối dõi cho Trần Thái Tông.
Cảnh Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi lại cho Trần Cảnh. (Ảnh minh họa)
Vua Trần Thái Tông. (Ảnh minh họa)
Lúc đó, Thái sư Trần Thủ Độ đã ép vua truất ngôi Hoàng hậu của Chiêu Thánh, lập Thuận Thiên công chúa (chị gái ruột Chiêu Thánh) đang mang thai 3 tháng và là vợ anh trai Trần Thái Tông, lên thay ngôi vị này. Ban đầu, Thái Tông hoàng đế phản đối, đang đêm bỏ trốn khỏi kinh thành, lên gặp sư Phù Vân ở Yên Tử để nương nhờ. Trần Thủ Độ vừa dỗ vừa gây sức ép, cuối cùng vua cũng phải chịu nghe theo. Thuận Thiên công chúa được phong làm hoàng hậu, còn Chiêu Hoàng bị giáng xuống làm Chiêu Thánh công chúa. Quá đau buồn và chán nản, Chiêu Hoàng đã xin được rời khỏi cung cấm và xuất gia đi tu, đề xuất của bà nhanh chóng được chấp nhận.
Trong cuộc chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược lần thứ nhất, vua Trần Thái Tông được một vị tướng tên Lê Tần hộ giá cứu sống, một mình một ngựa lấy ván gỗ che cho vua khỏi trúng tên của giặc. Ghi nhận công lao to lớn này, vua đã phong tước cho Lê Tần là Lê Phụ Trần, đồng thời gả vợ cũ, tức Chiêu Thánh công chúa cho. Trần Thái Tông đã phải tìm gặp lại Lý Chiêu Hoàng để thuyết phục bà. Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư có chép: “Vua nói rằng: “Trẫm nếu không có khanh (truyền ngôi), há lại có được ngày nay, khanh nên cố gắng để cùng hưởng phúc đến cùng”. Có lẽ ông muốn phần nào bù đắp những thiệt thòi và khổ đau mà bà đã phải gánh chịu.
Hình ảnh Lý Chiêu Hoàng được tái dựng trên màn ảnh.
Trước sự việc gây chấn động triều đình, “Việt sử giai thoại” của Nguyễn Khắc Thuần cũng ghi: “Hậu thế chẳng ai dám trách Lê Phụ Trần, chỉ tiếc cho vua Trần, rằng khen sao hay vậy mà thưởng sao lạ vậy. Trong đạo vợ chồng, Thái Tông chi mà bạc, bạc đến vậy, chi mà tệ, tệ đến vậy!“. Lý Chiêu Hoàng sống với Lê Phụ Trần được 20 năm, sinh ra con trai là Thượng vị hầu Lê Tông, con gái là Ứng Thụy công chúa Lê Ngọc Khuê. Đầu năm 1278, bà về thăm quê Cổ Pháp (Bắc Ninh). Tháng 3 âm lịch năm đó, bà mất, thọ 61 tuổi.
Tương truyền khi qua đời, tóc bà vẫn đen nhánh, môi vẫn đỏ như son, má vẫn tươi như hoa đào. Bà được táng ở bìa rừng Báng, phía tây Thọ Lăng Thiên Đức. Bà được người đời sau lập đền thờ, gọi là Long miếu (đền Rồng). Một số người cho rằng, vì bà đã để mất ngôi nhà Lý, nên bị coi là mang tội với dòng họ, không được thừa nhận và phải thờ riêng. Nhiều ý kiến khác cho rằng tuy Chiêu Hoàng là vua, nhưng suy cho cùng bà cũng chỉ là một phụ nữ, nên Lý Chiêu Hoàng không được thờ chung với các bậc tiên vương.
Cuộc đời của Lý Chiêu Hoàng có thể nói phải hứng chịu nhiêu đau đớn và cay đắng, khi từ hoàng đế xuống làm hoàng hậu rồi công chúa, sau đó lại bị chồng cũ gả cho tướng quân triều Trần. Nhưng không chỉ vậy, bà còn phải gánh trên lưng cái tiếng để cơ nghiệp hơn 200 năm nhà Lý rơi vào tay con nhà thuyền chài (nhà Trần). Kỳ thực, sự việc chuyển giao quyền lực này cũng đã được tiên đoán từ trước qua một bài thơ sấm cổ xuất hiện khi cây gạo làng Diên Uẩn bị sét đánh nhưng không chết vào thời trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi, lập ra nhà Lý:
Thụ căn diểu diểu
Mộc biểu thanh thanh
Hòa đao mộc lạc
Thập bát tử thành
Đông A nhập địa
Mộc dị tái sinh
Chấn cung kiến nhật
Đoài cung ẩn tinh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái bình
Bài thơ được người đời sau cắt nghĩa như sau:
Câu 3: chữ Hòa (禾) + chữ Đao (刀) + chữ Mộc (木) ghép lại thành chữ Lê (黎). Câu 3 tiên đoán nghĩa cây đổ, nhà Tiền Lê mất
Câu 4: chữ Thập (十) + chữ Bát (八) + chữ Tử (子) ghép lại thành chữ Lý (李). Câu 4 tiên đoán nhà Lý thay nhà Lê.
Câu 5: chữ Đông (東) ghép với chữ A (阿) thành chữ Trần (陳). Câu 5 tiên đoán họ Trần vào nước Việt làm vua.
Nội dung giải nghĩa đã phần nào dự báo trước cho người đời sau về việc nhà Trần sẽ là triều đại tiếp nối sau nhà Lý. Nếu đó là sự thực, thì phải chăng đã là thiên ý? Có câu rằng “trời muốn biến thì không ai cản nổi”, vậy một Lý Chiêu Hoàng nhỏ bé liệu có thể thay đổi vận mệnh đã được định sẵn. Dẫu biết vậy, nhưng không thể phủ nhận chính Lý Chiêu Hoàng là người tự tay kết thúc ngôi vị Lý triều, và nhà Trần khởi nghiệp nhờ mối duyên tình giữa hai vị hoàng đế kỳ lạ trong lịch sử Việt Nam.