Triều đại nhà Trần không chỉ vang danh bởi 3 lần chiến thắng quân Mông Nguyên mà còn bởi những nhân tài kiệt xuất với tài năng hơn người. Một trong số đó chính là Lê Giốc – người được mệnh danh là “mạ tặc thần”.
Xuất thân từ một mối tình kỳ lạ
Lê Giốc (hay Lê Bá Giốc), còn được gọi là Lê Giác (? – 1378), quê ở làng Kẻ Rỵ, giáp Bối Lý, huyện Đông Sơn, lộ Thanh Hoa, nay là làng Phủ Lý, xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Ông được cho là người thuộc dòng dõi Thái sư Lê Văn Thịnh thời vua Lý Nhân Tông, người đỗ đầu trong khoa thi đầu tiên của Nho học Việt Nam. Cha ông là Lê Quát – một trong những học trò của Chu Văn An và làm quan dưới thời vua Trần Minh Tông. Ông đảm nhiệm chức Thượng thư Hữu bật, nhập nội hành khiển (tương đương chức Thủ tướng ngày nay).
Lê Giốc là kết quả của mối lương duyên kỳ lạ giữa cha mẹ ông. Chuyện kể lại rằng, cha ông Lê Quát vốn là trẻ mồ côi cha, ở với mẹ trong một căn lều rách ở góc chợ và làm nghề quét rác nuôi thân. Chàng trai Lê Quát lúc đó thường bị gọi là anh Quét và bị coi thường vì làm nghề quét rác hèn hạ thấp kém. Cũng vì nhà nghèo nên anh không có điều kiện đi học, không biết chữ.
Từ anh quét chợ trở thành quan lớn. (Ảnh minh họa – Nguồn: sachxua.net)
Cùng làng với Lê Quát có một vị quan đại thần nổi tiếng là gia đạo phong nghiêm. Ông chỉ có một cô con gái xinh đẹp và đang đến độ tuổi gả chồng. Rất nhiều vương tôn công tử đem đồ dạm ngõ xin hỏi cưới nhưng quan đều chê không môn đăng hộ đối. Có đám quan ông đồng ý thì tiểu thư lại từ chối.
Một hôm tiểu thư đi chợ, đám vương tôn công tử bị cô từ chối bèn nghĩ cách trêu ghẹo cô. Họ gọi chàng Quét lại, xui anh đến xin cô miếng trầu. Cô gái thông minh biết đây chỉ là trò đùa của mấy đám thanh niên, lại thấy anh chàng quét rác mặt mũi khôi ngô sáng sủa hiền lành nên cô không muốn anh bị bẽ mặt bởi bọn trai trẻ độc ác nên thương tình cho miếng trầu cay. Không may cho cô gái, quan ông đi ngang qua đó, vén màn kiệu nhìn thấy cô trao miếng trầu cho anh quét rác thì vô cùng tức giận. Về đến nhà ông đùng đùng mắng cô: “Sách có chữ “Nam nữ thụ thụ bất thân”, sao mày dám bày trò đĩ thõa, tưởng mày kén cá chọn canh thế nào chứ lại phải lòng thằng quét chợ nghèo hèn! Thế thì cho mày đi với nó! Đi ngay! Từ rày tao cấm cửa”.
Cô gái khóc lóc bỏ đi và tìm đền căn lều tồi tàn của mẹ con chàng Quét nói:
– Chỉ vì tôi cho anh miếng trầu , để anh khỏi bẽ mặt trước lũ trai làng và mọi người mà bố mẹ đuổi tôi bơ vơ khổ sở. Âu cũng là do cái duyên , cái phận. Thôi anh cho tôi về hầu mẹ, hầu anh.
Cô gái về làm dâu nhà nghèo nhưng không một lời than vãn. Có chút vốn mang theo, cô khuyên chồng tìm thầy học chữ. Mới đầu, Lê Quát học rất tối dạ, chỉ mải chơi, không tập trung đến nghiệp bút nghiên, bị thầy trả về nhà. Nhưng nhờ vợ động viên, khích lệ, anh cố gắng học hành, chăm chỉ đèn sách nên ngày một giỏi giang, về sau trở thành một trong những trò giỏi của Chu Văn An. Lê Quát tham gia kỳ thi Thái học sinh và đỗ đầu, làm quan lớn dưới thời Trần. Sự thành đạt của Lê Quát đến từ một phần công lao rất lớn của vợ, bà còn hạ sinh cho ông một người con trai tài năng đức độ, đó chính là Lê Giốc.
Gương sáng cho thế hệ đời sau
Theo một số tài liệu từ Lê gia chính phả tại xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa, Lê Giốc nổi tiếng là người học giỏi, thi đỗ vào triều Trần Hiến Tông. Sách Đại Việt lịch triều đăng khoa lục viết ông đỗ Thái học sinh khoa thi năm Giáp Tuất (1334). Ông được vua Trần Nghệ Tông ban chiếu phong làm An phủ sứ trấn thủ đất Nghệ An khi đang đương chức Tả tham chính.
Thời điểm này nhà Trần đã bước vào giai đoạn suy yếu. Phía Bắc thì quân Minh lăm le xâm chiếm, phía Nam lại bị quấy nhiễu bởi quân Chiêm Thành. Trần Nghệ Tông nhường ngôi cho em là Trần Kính (Trần Duệ Tông) và lên làm Thái thượng hoàng, nhưng Trận Duệ Tông lại tử trận trong trận đánh với quân Chiêm Thành năm Đinh Tị (1377). Sau sự kiện này, thế lực của nhà Trần càng suy yếu hơn.
Trước cái chết vẫn hiên ngang không run sợ. (Ảnh minh họa – Nguồn: arthistory)
Năm Mậu Ngọ (1378), quân Chiêm tiến ra Bắc, đánh vào sông Đại Hoàng (nay là ngã ba Tuần Vương). Quân Trần không chống lại được, để mất thành Thăng Long vào tay quân Chiêm. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông mang cháu là vua Trần Phế Đế (con Duệ Tông) bỏ chạy. Lê Giốc lúc đó đang giữ chức Kinh Doãn tại kinh thành bị quân giặc bắt giữ.
Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú chép về sự việc này như sau: Nhiều người bị bắt khi ấy đã tuân theo mệnh lệnh của giặc, chỉ trừ có ông. Ông bị giặc bắt, giặc bảo ông phải lạy chúng, nhưng ngay lúc đó ông cả giận lớn tiếng mắng bọn giặc rằng:
– Ta là trọng thần nước lớn, há lại lạy mày là quân tiểu man à?
Giặc nổi giận, giết ông nhưng Lê Giốc không sợ luôn miệng chửi chúng. Việc này tâu lên, Giốc được truy phong là Mạ Tặc Trung Vũ hầu (nghĩa: trung dũng chửi giặc), cho con ông là Nhuế làm Chánh chưởng bốn cục Cận thị chi hậu (Đại Việt sử ký toàn thư).
Ngự Câu vương Trần Húc – người đầu hàng giặc trong trận đánh Chiêm Thành năm 1377 được cử đến lôi kéo Lê Giốc quy phục nhưng lại bị ông khinh bỉ mắng nhiếc đến mức phải hổ thẹn bỏ đi.
Quân Chiêm bắt ông quỳ lạy nhưng lại bị ông chửi không ngớt. Thậm chí ngay cả khi chúng trói ông thiêu sống, lời chửi vẫn vang to cho khiến giặc phải khiếp sợ. Tương truyền khi tiếng chửi vừa dứt thì Lê Giốc cưỡi khói bay lên, chứng kiến cảnh lạ lùng ấy, quân Chiêm cho là người trời lấy làm kinh sợ vội quỳ xuống bái lạy.
Đến đời nhà Nguyễn, nhà sử học Phan Huy Chú đã xếp Lê Giốc vào trong nhóm Bảy bề tôi tiết nghĩa thời nhà Trần. Thậm chí, vua Tự Đức cũng có bài thơ vịnh sự trung nghĩa của ông:
Đời mạt văn tàn võ chẳng trau,
Quân thua một trận thật là đau.
Chỉ đem tấc lưỡi la quân giặc,
Để tiếng ngàn thu “Mạ tặc thần”.
Sau khi truy phong tước hiệu cho Lê Giốc, triều Trần còn sai lập đền thờ phụng, các triều đại sau đều sắc phong ông là phúc thần.
Ngày nay, ở làng Kẻ Rỵ vẫn còn đền thờ Lê Giốc, ông được dân chúng tôn là Tiên hiền với duệ hiệu là: “Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, Mạ tặc trung vũ hầu Lê tướng công”. Trong đền thờ có đôi câu đối rằng:
Mạ tặc trung thần thanh vạn đại,
Thượng thiên ánh tuyết bạch tam quan.
Nghĩa là:
Trung thần chửi giặc tiếng lưu vạn đại,
Ánh hào quang trên trời vẫn rọi chiếu cửa đền.
Nếu Khổng Minh nổi tiếng chửi đến chết tư đồ Vương Lãng của nhà Ngụy thì Lê Giốc cũng không hề kém cạnh khi khiến cả ngàn vạn giặc Chiêm kính sợ mà bái lạy quỳ. Nhưng có lẽ bài học quý báu mà Lê Giốc để lại cho con cháu đời sau chính là tấm lòng trung nghĩa của một bề tôi, không ham sống sợ chết mà bán đứng cái đạo trong mình. Giống như nhà sử học Ngô Sĩ Liên đã khen ngợi: “Bỏ sống đễ giữ nghĩa còn hơn là sống; cầu sống mà nhục, người quân tử không làm. Kinh dịch nói: Người quân tử thà hy sinh tính mạng để thực hiện chí hướng của mình. Giốc là người như vậy”.
Thủy Tiên tổng hợp
Xem thêm: