Lời tòa soạn: Các dân tộc Á Đông có một nền văn minh vô cùng xán lạn. Lịch sử Á Đông nói chung, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam, rất hào hùng, tràn đầy khí chất. Lịch sử 5000 năm văn minh, văn hoá của Á Đông là cả một kho tàng vô giá cho hậu thế. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những quan niệm mới có phần thiên kiến, lệch lạc, lịch sử ấy đã bị cải biên và ngụy tạo nhiều. Với mong muốn phục hưng lại nền văn minh vĩ đại cũng như những truyền thống đạo đức quý báu của người Á Đông, chúng tôi tiến hành loạt bài về lịch sử Việt Nam, Trung Hoa… gửi đến quý độc giả, ngõ hầu phá giải được những quan niệm sai lệch hiện nay.
- Loạt bài dài kỳ: Phong vân mạn đàm
Lời bạch: Năm 279 TCN, quân đội nước Tề dưới sự chỉ huy của Điền Đan, đã dùng trâu lửa để đánh bại nước Yên và nhanh chóng chiếm lại đất đai vốn bị nước Yên chiếm giữ trước đây. Trận chiến này đều khiến nguyên khí hai nước Yên – Tề tổn hao nghiêm trọng…
Năm 278 TCN, đại tướng nước Tần là Bạch Khởi đã công hãm đô thành của nước Sở, nước Sở bị bức phải dời đô về Trần (nay thuộc huyện Hoài Dương tỉnh Hà Nam, Trung Quốc), đồng thời quân đội chủ lực đều bị tiêu diệt. Nước Hàn trước nay vẫn nhỏ yếu. Nước Nguỵ từ khi mất vùng Tây Hà, từ năm 340 TCN trở về sau, 60 năm liên tiếp bại trận. Còn nước Triệu lại quật khởi ở phía bắc Trung Hoa, trở thành quốc gia duy nhất cuối thời Chiến Quốc có khả năng chống lại nước Tần. Vậy thì nước Triệu đã quật khởi như thế nào?
Sự quật khởi của nước Triệu bắt đầu từ Triệu Túc hầu, Triệu Túc hầu là quân vương nước Triệu ủng hộ chính sách hợp tung của Tô Tần, nhưng sau “Hiệp ước Hoàn thuỷ” (nơi chư hầu sáu nước liên minh), không lâu sau Triệu Túc hầu bệnh chết, Thái tử Triệu Ung kế vị, ông là Triệu Vũ Linh vương rất nổi tiếng trong lịch sử.
Khi Triệu Ung kế vị, nước Triệu còn chưa hùng mạnh. Sau khi ông kế vị được 8 năm, đương thời có một cuộc vận động là Ngũ quốc tương vương. Tần và Sở đều đã xưng vương rồi, vậy còn năm nước còn lại là Hàn, Tề, Nguỵ, Yên và Trung Sơn, họ đều lấy Hầu tước và Công tước đổi thành Vương tước. Khi đó Triệu Ung không tham dự, ông nói: “Nước Triệu ta nhỏ yếu như vậy, không có thực lực, hà tất cần hư danh”. Do đó ông để người khác gọi ông là “quân” (君), còn Triệu Vũ Linh vương trên thực tế là thuỵ hiệu (諡號: tên quân vương sau khi mất).
Triệu Ung khai khẩn biên cương, mở rộng đất đai nên đã giải quyết được vấn đề xâm lăng của các dân tộc thiểu số phương bắc. Theo cách đặt tên thuỵ (1), khắc chế được hoạ loạn là Vũ (武: sức mạnh, võ thuật), cho nên thuỵ hiệu của ông có chữ Vũ. Ông lại phạm một sai lầm khiến con trai trưởng và bản thân ông chết một cách oan uổng (2), chết thảm ở chính biến cung đình; theo cách đặt thuỵ hiệu, loạn mà không cách nào chỉnh trị được gọi là Linh (靈). Từ cách phân tích trên, trong thuỵ hiệu của ông có cả hai chữ Vũ Linh, Triệu Vũ Linh vương (趙武靈王).
Triệu Vũ Linh vương kế vị vào năm 325 TCN, khi đó ông khoảng 15 tuổi. Lúc ông vừa mới kế vị, Tần, Sở, Yên, Nguỵ, Tề tổng cộng 5 nước, mỗi nước phái một vạn quân nói là đến để truy điệu phụ thân của Triệu Ung. Ta phân tích ở đây, nếu các nước thật sự tôn kính phụ thân của Triệu Ung, họ chỉ cần phái một sứ thần mang theo một ít binh mã là được. Đem quân lớn đi như vậy nhất định có âm mưu, chính là nhân lúc này diệt nước Triệu, phân chia đất nước Triệu.
Không biết lúc đó Triệu Ung đã dùng biện pháp gì để khiến âm mưu xâm lược của 5 nước ngoại bang thất bại, nhưng lúc đó quả thực Triệu Ung nhận phải uy hiếp rất lớn. Ông bái Phì Nghĩa làm thầy, hy vọng nước Triệu sẽ cường đại trở lại. Thời gian đó, nước Triệu đã phát sinh mấy cuộc chiến với nước Tần và nước Tề, cứ đánh là thua, thành trì đều bị chiếm đoạt, binh sĩ hàng vạn người bị giết là chuyện bình thường.
Triệu Ung muốn quốc gia hùng mạnh tất phải giải quyết ba vấn đề. Khi đó ở phía bắc nước Triệu có một quốc gia là Trung Sơn, phân chia nước Triệu thành hai vùng đông – tây. Nước Trung Sơn rất lớn, năm đó Triệu Văn hầu phái Nhạc Dương đã công hạ được Trung Sơn, nhưng vì Trung Sơn quá rộng, nước Nguỵ sau này lại suy yếu cho nên rất nhanh sau đó Trung Sơn đã phục quốc.
Triệu Ung nói: “Nước Trung Sơn như trong lòng nước Triệu, biến nước Triệu thành hình chữ Ao (凹), hai phía đông – tây của nước Triệu muốn giao thông qua lại ắt phải qua Trung Sơn, hoặc phải từ Trung Sơn vòng xuống hướng nam”. Cho nên Triệu Ung cho rằng, Trung Sơn là mầm hoạ bên trong (3). Đây là vấn đề thứ nhất mà ông phải giải quyết.
Vấn đề thứ hai là phía bắc nước Triệu có rất nhiều dân tộc thiểu số, sức chiến đấu của họ lại vô cùng mạnh. Một số quốc gia trong ‘Chiến Quốc thất hùng’ bị phong bế, ví như Hàn, Tề, Lỗ… những quốc gia này muốn khuếch trương ra ngoài ắt phải tác chiến. Do đó việc khuếch trương lãnh thổ ở Trung Nguyên khá là khó khăn.
Nhưng có một số quốc gia đất đai (cương vực) lại có thể khai mở linh hoạt. Ví dụ như phía tây của nước Tần có thể khai mở linh hoạt, bắt đầu từ thời Tần Mục công là đã mở rộng về phía tây. Cương vực phía nam nước Sở là khai mở linh hoạt, phía đông của nước Sở là nước Triệu, Sở có thể thôn tính Triệu để mở rộng đất đai, gia tăng nguồn chiêu mộ binh lính, gia tăng nguồn tài nguyên. Phía bắc nước Yên cũng có thể khai mở linh hoạt.
Quốc gia của dân tộc thiểu số phía bắc nước Triệu đều rất mạnh mẽ hung hãn, trong đó có một bộ lạc tên là Hồ, sau này cũng gọi là Bắc Hồ. Hậu nhân của người Bắc Hồ là người Tiên Ti (鮮卑) – một dân tộc thiểu số phía bắc thời Tuỳ – Đường. Phía tây nước Triệu còn có Lâu Phiền (một nhánh của Bắc Địch: các tộc thiểu số phương bắc), sau đó nữa còn có Lâm Hồ, phía tây còn có nước Tần; phía nam là nước Hàn… Do đó, bốn mặt của nước Triệu dù là quốc gia hay bộ lạc, họ đều có thể uy hiếp nước Triệu. Thời đó nước Triệu không ngừng phát sinh chiến tranh với các tộc thiểu số, hầu như đi đánh là thua.
Vấn đề thứ ba là sự khác biệt trong văn hoá hai miền nam bắc của nước Triệu. Phía nam nước Triệu là đô thành Hàm Đan, là vùng có văn minh canh tác nông nghiệp (nông canh), thuộc văn minh của Trung Nguyên. Còn phía bắc lại là văn hoá du mục. Vì thế đại thần trong nước Triệu cũng phân thành hai phái, một phái khuynh hướng văn hoá nông nghiệp, ví như chú của Triệu Ung là Triệu Thành; còn thầy Phì Nghĩa thì mang khuynh hướng văn hoá du mục.
Tóm lại, ba vấn đề mà Triệu Ung cần giải quyết là: Trung Sơn, sự xâm lấn của các dân tộc thiểu số và sự sai biệt văn hoá hai vùng bắc – nam của nước Triệu.
Lời bạch: Năm thứ 19 đời Triệu Vũ Linh vương, Tần Vũ vương băng hà, em trai vua Tần khi ấy là Doanh Tắc kế vị. Không lâu sau, nước Tần phát sinh chính biến, Triệu Vũ Linh vương nhân lúc nước Tần có nội loạn, đồng thời quan sát phía tây tạm thời không có nguy hiểm, ông quyết định đầu tiên diệt Hồ, Trung Sơn, sau đó hoạch định chiến lược tranh bá thiên hạ, mà một bước quan trọng là “mặc trang phục Hồ, chú trọng huấn luyện kỵ binh và kĩ năng bắn cung” (Nguyên gốc là Hồ phục kỵ xạ – 胡服騎射). Nghĩa là gác lại chiến xa truyền thống, cải tiến vận dụng cách huấn luyện kỵ binh của người Hồ để xây dựng quân đội chủ lực, đồng thời cũng cải trang ăn mặc theo trang phục người Hồ. Lần quyết định này được thầy Phì Nghĩa hỗ trợ.
Triệu Vũ Linh vương sau khi quyết định, bị quý tộc trong nước phản đối ngăn chặn, trong đó sự phản đối lớn nhất chính là từ người chú Triệu Thành – một người rất có uy vọng trong giới quý tộc nước Triệu. Triệu Vũ Linh vương nói với chú Triệu Thành: “Nếu chúng ta không ‘Hồ phục kỵ xạ’, chúng ta sẽ nhục nhã vì bị thất bại hết lần này đến lần khác, hoạ vong quốc cứ theo đó mà đến”. Triệu Thành sau đó được Triệu Vũ Linh vương thuyết phục, cũng quyết định mặc y phục người Hồ, lần lượt các quý tộc ở Triệu đều mặc Hồ phục.
Do kỵ binh có năng lực tác chiến ưu việt, có lực xung kích vô cùng mạnh mẽ và tính cơ động cao, thêm nữa cung tiễn là vũ khí bắn xa, đã khiến binh lực nước Triệu trong thời gian ngắn đạt được sức mạnh cường đại, đồng thời vì toàn nước Triệu đều mặc Hồ phục, nên tiếp cận được với văn hoá dân tộc thiểu số, cho nên có một số dân tộc thiểu số bèn đến nương nhờ nước Triệu, nếu không nương nhờ sẽ bị nước Triệu tấn công.
Nước Triệu trải qua khoảng mười năm “Hồ phục kỵ xạ”, hầu như trong mười năm là đánh đâu thắng đó, diệt được mối lo là Trung Sơn – một quốc gia bằng nửa nước Hàn – mở rộng được ngàn dặm đất. “Hồ phục kỵ xạ” đã cho thấy hiệu quả rất lớn, Triệu Vũ Linh vương sau khi diệt các dân tộc thiểu số và Trung Sơn, ông đã bắt đầu tu sửa xây dựng trường thành để chặn lại vùng biên giới phía bắc.
Thời Chiến Quốc, để chống lại sự xâm lăng của các dân tộc thiểu số, nước Triệu, nước Yên đều xây trường thành. Sau này khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc, xây trường thành chính là liên kết lại những trường thành thời Chiến Quốc và dỡ bỏ một số tường thành biên giới giữa các quốc gia trong quá khứ.
Triệu quốc sau mười năm “Hồ phục kỵ xạ” đã là một quốc gia có thể chống lại nước Tần, khi này Triệu Vũ Linh vương có thể nói là hào khí vạn trượng.
Các quốc gia ở Trung Nguyên trong quá khứ khi tấn công nước Tần chỉ có một con đường, chính là từ ải Hàm Cốc (Hàm Cốc quan) đánh về phía tây, ải Hàm Cốc dễ thủ khó công, có thể nói là một nơi “một khi đã đóng, thì muôn ngàn lần không thể mở” (4), quá khứ năm nước đánh Tần đều là “tay không mà về” (5).
Triệu Vũ Linh vương sau khi đánh đuổi tộc Hồ, Lâu Phiền, ông phát hiện ra một điều rất quan trọng, đó là khi tấn công nước Tần thì không cần phải qua ải Hàm Cốc. Có thể từ hai địa phương phía bắc nước Tần, một nơi là Vân Trung, nơi còn lại là Cửu Nguyên, chính là tây nam Hồi Hột và thành phố Bao Đầu, khu Nội Mông Cổ.
Khi đó Triệu Vũ Linh vương có một kế hoạch rất hùng tráng vĩ đại, chính là: Từ phía bắc tấn công xuống và tiêu diệt nước Tần. Để thực hiện kế hoạch này, ông làm hai việc có thể nói là rất lỗ mãng.
Việc thứ nhất, chính là ông đem vương vị truyền lại cho con trai thứ là Triệu Hà. Vì sao lại truyền cho Triệu Hà? Triệu Vũ Linh vương trị vì được 16 năm, có một đêm ông nằm mộng, mộng thấy một người con gái vô cùng xinh đẹp đánh đàn xướng ca cho ông. Ngày hôm sau khi cử hành yến tiệc, Triệu Vũ Linh vương vẫn nhớ đinh ninh về người con gái, mới hỏi đại thần: “Hôm qua ta nằm mơ thấy người con gái, hình dáng như thế này, biết đánh đàn như thế như thế…”.
Đại thần Ngô Quảng nói: “Chao ôi, thần có một người con gái vô cùng giống trong giấc mơ ngài tả, hơn nữa nó còn biết chơi đàn xướng ca”. Triệu Vũ Linh vương nghe vậy liền vô cùng hưng phấn, bèn triệu con gái Ngô Quảng vào. Ông nhìn thấy quả thật giống với người con gái trong mộng, bèn nạp cô ấy làm phi tử, gọi là Ngô Oa. Ngô Oa được gả cho Triệu Vũ Linh vương không lâu, liền sinh được người con trai là Triệu Hà.
Trước khi có Ngô Oa, Triệu Vũ Linh vương từng cưới công chúa nước Hàn, sinh được người con trai tên Triệu Chương. Triệu Chương được phong làm Thái tử. Sau này Ngô Oa mất, Triệu Vũ Linh vương rất đau buồn, vì để tỏ lòng thương nhớ cảm tình với người thiếp, ông quyết định đem vương vị giao cho Triệu Hà (con của người thiếp Ngô Oa). Thông thường việc phế lập thái tử là phế một lập một. Triệu Vũ Linh vương quyết định lập Triệu Hà là người kế nghiệp, điều này đồng nghĩa với việc phế Thái tử hiện tại là Triệu Chương.
Triệu Vũ Linh vương hy vọng khi ông còn sống có thể củng cố lực lượng của Triệu Hà, ông huấn luyện Triệu Hà để thành một quân vương hợp cách. Ông còn hy vọng Triệu Hà có thể xử lý vấn đề kinh tế chính trị của nước Triệu, còn Triệu Vũ Linh vương trống tay thì tự mình xử lý những chuyện liên quan đến quân sự, đặc biệt là kế hoạch tấn công nước Tần. Như vậy ông coi mình như vương phụ (cha vua), có chút giống với Thái thượng hoàng, cho nên mọi người có thể gọi ông là Triệu vương phụ.
Sự việc phế trưởng lập thứ sẽ đưa nước Triệu đi về đâu, kính mời quý độc giả đón xem phần tiếp theo.
Chú thích:
(1) Nguyên gốc là Thuỵ pháp – 諡法: cách đặt tên/lấy tên thuỵ.
(2) Nguyên gốc là Tử ư phi mệnh – 死於非命: chết oan.
(3) Nguyên gốc là Tâm phúc chi hoạn – 心腹之患: hoạ hoạn ở bên trong.
(4) Nguyên gốc là Nhất phù đương quan, vạn phù mạc khai – 一夫當關,萬夫莫開.
(5) Nguyên gốc là Vô công nhi phản – 無功而返.
Theo Epoch Times
Mạn Vũ biên dịch