Theo thống kê, ở Việt Nam cứ 3 cặp kết hôn thì lại có xấp xỉ 1 cặp ly hôn. Một cuộc điều tra xã hội học cũng cho thấy, những người có trình độ đại học trở lên hầu như không ai cho rằng ly hôn là việc sai trái. Ly hôn, huỷ hôn ngày nay phải chăng đã “nhẹ tựa lông hồng”, đâu còn “nặng tựa Thái Sơn” như ngày xưa nữa?

Thời hiện đại: Quan niệm “thoáng”, ly hôn nhiều

Theo nghiên cứu vừa thực hiện năm 2018 của Viện nghiên cứu phát triển Mekong (Hà Nội), có khoảng 21% số người được khảo sát cho rằng ly dị là không sai trái. Những người càng có trình độ học vấn cao thì càng coi chuyện ly dị là bình thường. “Vợ chồng sống với nhau, không hợp thì chia tay”.

Quan niệm “thoáng” đi kèm với tỷ lệ ly hôn cũng cao. Ở Việt Nam hiện nay, tỷ lệ ly hôn là 31,4%, tức là cứ 3 cặp kết hôn lại có 1 cặp ly hôn. 60% số vụ ly hôn này thuộc về các gia đình trẻ, nhiều trường hợp đã có con (1). Trong những tình huống ấy, ly hôn có thể là sự giải thoát cho nỗi đau khổ tạm thời, nhưng có thể lại là khởi nguồn cho những bi ai nối tiếp…

Thời xưa: Quan niệm “cổ hủ”, đạo nghĩa vẹn tròn

Trong khi hôn nhân thời hiện đại hợp tan phần lớn là vì lý do tình cảm, liên quan tới cảm thụ của hai người, thì người xưa lại xem hôn ước như một cam kết thiêng liêng trọng đại, do Trời Đất và phụ mẫu an bài, hết lòng thuận theo. Ly hôn, huỷ hôn cũng có thể xảy ra, nhưng lý do đằng sau đó không khỏi khiến ta phải ngẫm nghĩ (2).

Mã Phượng Chí hủy hôn ước của con trai

Thời nhà Minh, có một văn sĩ tên là Mã Phượng Chí, con trai của ông đã đính hôn với một cô gái, hai bên đều đã ký kết hôn ước. Vài ngày không lâu sau hôn ước, con trai Mã Phượng Chí đột nhiên bị chứng liệt, tứ chi không còn sức lực, tay không thể cầm nắm và chân không thể đi. Vậy nên gia đình bên cô gái oán trách chuyện hôn sự này, có ý định muốn hối hôn.

Mã Phượng Chí nghe được chuyện đó, ngay lập tức nói với người bên nhà gái rằng: “Ta sao có thể nhẫn tâm để đứa con trai bị bệnh của mình làm phí mất tuổi thanh xuân của khuê nữ nhà các vị được?” Sau đó, ông lập tức đồng ý hủy hôn ước, ngay cả sính lễ ban đầu mang tới nhà gái cũng không đòi lại. Điều kỳ diệu là ngay sau khi hôn ước hủy, chứng liệt của con trai ông khỏi rất nhanh, và lại trở thành một thanh niên khỏe mạnh như rồng như hổ.

Tần Trâm Viên nhường hôn lễ cho người khác

Thời nhà Thanh, có Tần Trâm Viên là cử nhân, vợ con ông đều lâm bệnh qua đời nên ông cưới một người vợ khác. Đêm tân hôn, cô gái cứ khóc mãi không ngừng, hỏi nguyên cớ vì sao, cô gái nói: “Khi còn nhỏ tôi đã hứa hôn cho con trai nhà họ Lý ở làng bên, cha mẹ chê nhà họ Lý nghèo hèn, buộc Lý gia từ hôn, ép tôi lấy chồng khác. Tôi ngẫm lại thân mình phải gả bán cho hai họ, trái với đạo làm vợ nên đau lòng quá mà khóc thôi”.

Tần Trâm Viên nghe xong mà kinh hãi, nói: “Sao không nói sớm, chút nữa đã làm ta phạm phải đại tội rồi!” Sau đó, ông liền rời khỏi phòng cô dâu, gọi người hầu đi tìm con trai của họ Lý. Sau khi con trai họ Lý đến, Tần Trâm Viên kể lại ngọn ngành, rồi nói: “Đêm nay tốt ngày, hai người có thể ở tại nhà tôi mà thành thân” và tặng lại toàn bộ tài vật thành thân cho hai người.

Hai vợ chồng cảm kích rơi lệ, không biết phải nói năng làm sao, liên tục khấu đầu cảm tạ. Ba ngày sau, hai vợ chồng mới cưới liên tục khấu đầu cảm tạ rồi rời đi. Năm Càn Long thứ 28, tức năm Quý Mùi, Tần Trâm Viên thi đỗ tiến sĩ. Khi thi Đình ông được hoàng thượng đích thân chỉ định đỗ Trạng Nguyên, đứng đầu thiên hạ.

Hôn thê mù loà, không huỷ hôn ước

Thời nhà Tống ở huyện Hoa Âm, có một nho sĩ họ Lữ, thi đỗ tiến sĩ. Ông ta trước có định hôn ước, vị hôn thê bị bệnh mà trở nên mù lòa. Trên đường vinh quy bái tổ trở về, gia đình nhà gái vì con gái bị bệnh mù mà muốn hủy bỏ hôn ước. Nho sĩ Lữ không đồng ý, vẫn cưới cô gái mù kia. Sau này, họ sinh được năm con trai, đều thi đỗ tiến sĩ.

Không chỉ có một chuyện như thế. Có người ở huyện Mật, tên Quách Đạt, tự Bá Vũ, là một cống sĩ năm Bính Tý triều Minh Vạn Lịch. Ông được bổ nhiệm làm quan đồng tri tại châu Chân Định. Lúc nhỏ người nhà đã định hôn sự và sính lễ cho ông. Cô dâu họ Diêu bỗng nhiên hai mắt bị mù. Nghe tin Quách Đạt đã làm quan, bên nhà gái bèn chủ động đề nghị họ Quách cho từ hôn. Quách Đạt hướng lên trời mà thề rằng: “Ta không lấy nàng, thì nàng sẽ đi về đâu?” Sau đó ông lập tức cùng cô gái họ Diêu thành hôn. Hai vợ chồng sống với nhau hạnh phúc, sinh được sáu người con trai, ai nấy đều rất có tiền đồ.

Đôi dòng suy ngẫm

Huỷ hôn, ly hôn, bản thân sự việc đó chưa đủ phân định tốt xấu, mà tốt xấu là ở nguyên do đằng sau, ở cái tâm con người. Khi phải lựa chọn trong hôn nhân, luôn nghĩ tới tổn thất và khó khăn của người khác, dành lại gian nan cho bản thân mình, đây chính là đạo đức tốt đẹp trong văn hoá truyền thống. Bởi lẽ người xưa đều tin vào thiện ác hữu báo, hiểu rằng làm lợi cho người khác cũng là làm lợi cho chính mình.

Vào thời Hán Quang Vũ Đế có một đại thần lòng dạ rộng lớn tên là Tống Hoằng. Tống Hoằng đã có nương tử, nhưng vì cảm phục đức độ của ông nên Hoàng đế muốn gả chị gái là công chúa Hồ Dương cho Tống Hoằng. Với người bình thường đây là phúc phận không gì sánh được, nhưng Tống Hoằng đáp: “Thần chỉ nghe nói ‘người bạn kết giao lúc nghèo khó không được quên, người vợ cùng chung hoạn nạn không được bỏ’”. Một lời của Tống Hoằng kiên định như sơn, khiến hoàng gia bị từ chối mà vẫn kính phục, tấm lòng trung trinh ấy tin rằng có thể khiến hậu thế nghìn năm sau nghiêm túc soi mình.

Khiêm Từ

(1) Theo công trình nghiên cứu xã hội học của TS Nguyễn Minh Hòa (Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn TP.HCM)

(2) Các câu chuyện trong bài trích dẫn từ vn.minghui.org.

videoinfo__video3.dkn.tv||a6949e53b__