“Trích Tinh ngọn lửa cháy bừng lên,
Ngọc nát vàng tan cháy rụi đền
Cơ nghiệp Thành Thang thành tro bụi,
Sáu trăm năm lẻ nghĩ buồn tênh”.

Ấy là câu thơ của người đời sau tiếc thương cho cơ nghiệp Thành Thang, sáu trăm năm lẻ hóa thành tro bụi bởi Trụ vương hoang dâm bạo tàn. Chế Bào Lạc đốt trung lương, lập Sái Bồn hại cung nữ, cất Lộc đài từ xương máu nhân dân, bày Tửu Trì, Nhục Lâm giết thị thần, thái giám, chặt xương xem tủy, mổ bụng coi thai… những tội ác tày trời đều một tay Hồ Ly Đát Kỷ xui Trụ vương làm cả. Mà Hồ Ly tinh chính là do Nữ Oa nương nương sai đến, để trừng phạt Trụ vương tội bỡn cợt Nữ Oa. Có người cho rằng vị nữ Thần đã vì giận hờn cá nhân mà chẳng ngó ngàng tới dân đen, sai sử yêu ma khiến sinh linh đồ thán. Chúng ta hãy thử bình tâm đọc lại Phong Thần diễn nghĩa, để lĩnh hội huyền cơ ẩn giấu sau câu chuyện này.

Hồi thứ nhất: “Trụ vương tế miễu bà Nữ Oa” kể về lịch sử nhân đức của nhà Thương, trao truyền từ vua Thành Thang tới Trụ vương là đời thứ 28. “Vua Trụ ngồi hưởng thái bình, muôn dân lạc nghiệp, mưa hòa gió thuận, tưởng không có gì sung sướng hơn”, cho tới khi Hồ Ly tinh xuất thế. Truyện viết như sau:

“Một hôm vào tiết tháng ba, vua Trụ ngự triều, Thừa tướng Thương Dung tâu:

– Ngày mai là ngày rằm, nhằm vía bà Nữ Oa, xin bệ hạ đi dâng hương cầu phước.

Vua Trụ hỏi:

– Bà Nữ Oa là người thế nào đến nỗi Trẫm phải bỏ ngai vàng đi dâng hương?

Thương Dung tâu:

– Bà Nữ Oa là em gái của vua Phục Hy, hiện là một vị Thần linh hiển lắm. Trước kia Cung Công làm phản, đụng đầu vào núi Bất Châu, đất bị nghiêng sụp, bà Nữ Oa bèn lấy năm sắc đá vá trời. Bởi có công với đời như vậy, nên mấy triều vua đều lập miễu phụng thờ. Nơi nào thờ miễu Bà thì nơi ấy mưa thuận gió hòa, mối nước được yên, dân gian khỏe mạnh. Xin bệ hạ đến đó dâng hương, chẳng nên khinh dễ.

Vua Trụ nhận lời:

– Nếu vậy mai Trẫm sẽ đến đó dâng hương cầu phước, sẵn dịp du ngoạn một chuyến.

Hôm sau, vua trụ truyền long giá ra đi, các quan đi theo phò tá rất đông. Ba ngàn binh kỵ mã, tám trăm quân Ngự Lâm do Hoàng Phi Hổ điều khiển, trước sau đông nghẹt.

Xa giá đến đâu dân chúng đều thắp nhang đèn trước cửa vọng bái.

Khi đến trước đền Thần Nữ Oa, vua Trụ bước xuống xe đến nơi chính điện đặt một đĩnh trầm, và các quan đồng lạy.

Vua Trụ trông thấy trong điện trang nghiêm lắm, những hình tượng toàn bằng vàng ngọc đứng hầu hai bên. Những cặp con trai cầm phướn đúc vàng, những tượng con gái chạm bằng ngọc đứng dâng hương. Trên điện không thiếu gì hạc múa loan xòe, rồng bay phượng lộn, đèn trưng như sao mọc, khói tỏa như mây mờ, uy nghiêm chẳng khác gì đền vua.

Trụ Vương đang say mê, thì bỗng một luồng gió nhẹ thổi qua làm bức màn vẹt qua, vua trông thấy tượng bà Nữ Oa rất rõ, hình dung như người sống chẳng khác gì một nàng tiên, hương trời sắc nước không đâu bì kịp.

Tranh vẽ minh họa Nữ Oa (ảnh: Wikipedia).

Lời xưa thường nói:

– Nước gần mất thì có yêu nghiệt hiện ra.

Vua Trụ nhìn tượng Thần Nữ Oa không nháy mắt, tự nhủ với lòng:

– Ta tuy làm vua giàu có bốn biển, nhưng trong tam cung lục viện không thấy có người nào được cái nhan sắc như vậy.

Nghĩ rồi truyền thị vệ đem bút mực đến, và đề một bài thơ ngay trên vách tường:

Lạnh lùng trướng phủ xõa màn loan
Bóng sắc khen ai khéo điểm trang
Liễu uốn mày ngài khoe sắc lục
Xiêm tung sóng nước điểm non vàng
Hải đường sương đượm màu tươi tốt
Thược dược mưa nhuần bóng vẻ vang
Nếu người đẹp ấy như người thật
Ðem về cung điện dựa thiên nhan.

Thừa Tướng Thương Dung thấy vua Trụ đề thơ như vậy thất kinh quỳ tâu:

– Bà Nữ Oa là Thần Thánh đời thượng cổ. Tôi tưởng bệ hạ chỉ nên dâng hương cầu phước cho mưa thuận gió hòa, sóng trong biển lặng. Còn việc đề thơ có ý trêu cợt như vậy không nên. Xin bệ hạ truyền lấy nước rửa đi kẻo thiên hạ trông thấy truyền ngôn cho bệ hạ không có đức chánh.

Vua Trụ nói:

– Trẫm thấy tượng Thần xinh đẹp, đề một bài thơ tán thưởng chớ chẳng có ý gì khác. Vả lại Trẫm là thiên tử cũng nên để lại mấy vần thơ này cho thiên hạ rõ nhan sắc của bà, và chiêm ngưỡng vần thơ của Trẫm chứ?

Dứt lời truyền hồi loan. Các quan không ai dám nói lời nào nữa. Về đến đền Long Ðức, các quan chúc mừng rồi ai về dinh nấy.

Bấy giờ nói đến bà Nữ Oa đi lên cung Hỏa Vân chầu ba Thánh là: Phục Hy, Thần Nông, và Hoàng Ðế.

Khi chầu xong bà Nữ Oa trở về đền, lên ngồi nơi chánh điện. Hai bên gái ngọc trai vàng làm lễ, bà Nữ Oa nhìn qua bên vách thấy bài thơ của vua Trụ, nổi giận nói:

– Ân Thọ hôn quân! Không lo sửa mình trị thiên hạ lại sinh tâm tà bậy, không sợ luật trời. Thật đáng ghét! Trước kia vua Thành Thang đuổi vua Kiệt thu thiên hạ, hưởng dư sáu trăm năm đến nay tuần thời đã hết. Nếu ta không báo ứng sao gọi là linh.

Nói rồi liền đằng vân bay vào triều, cố vật chết vua Trụ để rửa hờn. Nhưng vừa lướt đến phía ngoài hậu cung, Nữ Oa gặp hai đạo hào quang xông đến cản lại.

Hai đạo hào quang này là của Ân Hồng và Ân Giao (Nguyên vua Trụ có hai người con trai, người anh là Ân Hồng, người em là Ân Giao, sau này đều được phong Thần, nên mới có hào quang như vậy). Hôm ấy hai anh em vào hậu cung chầu vua Trụ. Bà Nữ Oa bị hào quang cản trở, tính ra mới biết vua Trụ còn hai mươi tám năm nữa mới tận số, nên đằng vân trở về miễu.

Tuy nhiên, lòng vẫn căm tức không nguôi, bà liền gọi Thể Vân đồng tử lấy bầu vàng đem ra để giữa sân giở nút, rồi đưa tay chỉ một cái, tức thì trong bầu bay ra một đạo hào quang trắng phau như dải lụa, dài hơn năm trượng. Ðạo hào quang lại hiện ra hình một cây phướn ngũ sắc tua tủa khắp một vùng.

Phướn này gọi là phướn chiếu yêu. Trong giây phút sa mù bao phủ, gió lộng ào ào, các yêu đều hiện đến.

Bà Nữ Oa ra lệnh cho Thể Vân đồng tử bảo các yêu trở về động hết, chỉ chừa lại ba con yêu tại mả Hoàng Ðế và cho vào ra mắt.

Ba yêu vâng lệnh, vào quỳ lạy xưng:

– Chúng tôi là hồ ly ngàn năm, chim trĩ chín đầu và đàn tỳ bà bằng đá ngọc thạch đến chầu nương nương.

Bà Nữ Oa nói:

– Nay cơ nghiệp Thành Thang đã mỏi mòn, vua Trụ sắp đến ngày mất nước. Núi Kỳ Sơn phụng gáy nhà Tây Chu, người đó là khí số do trời định. Ba chị em bay hãy giấu mình yêu quái, trà trộn vào cung điện, làm cho Trụ vương điêu đứng. Ðợi cho Võ vương đánh Trụ thành công, ta cho chúng bay thành Thần. Song ta cấm một điều là không được tàn hại bách tính, chỉ trả thù Trụ vương thôi.

Ba yêu vâng lệnh lui ra, đằng vân về động”.

Câu chuyện trên miêu tả phản ứng của Nữ Oa qua những từ như “nổi giận”, “đáng ghét”, “căm tức khôn nguôi”… bề ngoài giống hệt như cảm xúc của người thường. Có lẽ vì vậy, vị nữ Thần quảng đại từ bi từng đội đá vá trời, lấy đất bùn tạo con người, dạy nhân loại luân lý hôn nhân trong truyền thuyết, bỗng biến thành một người phụ nữ phàm tục hẹp hòi trong con mắt của không ít hậu nhân. 

Thế nhưng, nếu chúng ta chỉ từ bề mặt mà xét đoán Thần linh, e là sẽ mắc phải sai lầm “lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử”. Thần Phật là những sinh mệnh ở cảnh giới cao, không còn ôm giữ những hỷ nộ ai lạc của người phàm, đối với mọi việc đều hành xử thuận theo Thiên ý. Thần Phật là từ bi, và có cả uy nghiêm. Ví như trong Tây du ký, Phật Tổ Như Lai là đấng đại từ đại bi, nhưng Ngài đã giam Tôn Ngộ Không dưới núi Ngũ Hành suốt 500 năm, “đói ăn viên sắt, khát uống rỉ đồng”, để trừng phạt tội rông rỡ làm càn, coi khinh trời đất. Trong trường hợp này, phải chăng Nữ Oa nương nương đang triển hiện ra khía cạnh “uy nghiêm” đối với Trụ vương, cũng là lưu lại bài học bất hủ cho hậu thế?

Minh họa Phong thần diễn nghĩa. Trái:Tỉ Can và Văn Trọng; Phải: Trụ Vương và Đát Kỷ (ảnh: Wikipedia).

Cổ đức có bài thơ rằng:

“Nhân tâm sinh nhất niệm
Thiên địa tận giai tri
Thiện ác nhược vô báo
Càn khôn ắt hữu tư”.

Ý rằng con người nảy sinh một niệm, trời đất đều biết tường tận; nếu không có quả báo thiện ác thì chẳng lẽ càn khôn có tư tâm, thiên vị sao? Nếu niệm dâm tà, bất kính Thần linh của Trụ vương chẳng bị báo ứng, thì còn đâu là Thiên Đạo? Quả vậy, Nữ Oa nương nương đã nói: “Nếu ta không báo ứng sao gọi là linh”. Nếu Nữ Oa không báo ứng Trụ vương, thì lịch sử sẽ mất đi một tấm gương tày liếp mà soi chiếu. Các đấng quân vương trở về sau sẽ chẳng biết kính sợ Thần linh, cũng chẳng biết ngăn lòng dâm dục.

Sự báo ứng của vị nữ Thần đối với Trụ vương cũng không hề tuỳ tiện. Đát Kỷ lộng hành chỉ trong khoảng 28 năm là Nữ Oa quay lại thu phục, trùng khớp với thời điểm Võ vương diệt Trụ được Thiên Thượng an bài từ đầu. Ngoài ra, Nữ Oa nương nương còn căn dặn ba nữ yêu rằng: “Song ta cấm một điều là không được tàn hại bách tính, chỉ trả thù Trụ vương thôi”. Câu nói này chứa đựng lòng từ bi của vị nữ Thần. Tuy nhiên, Đát Kỷ sau này đã bỏ qua lời dặn, nổi tính hung ác giết người vô tội. Nữ Oa nương nương vì thế không “phong Thần” cho chúng như ước hẹn ban đầu, mà giao cho Khương Tử Nha xử trị.

Phong Thần diễn nghĩa, hồi 96 “Nữ Oa đón thâu Đát Kỷ” có viết:

“Lúc này ba con yêu ăn thịt cung nga vừa xong, nổi gió bay lên, tính về hang cũ.

Dương Tiễn trông thấy đón lại kêu lớn:

– Ba con quái chạy đâu cho khỏi. Có ta đến bắt ngươi đây.

Hồ Hỷ Mỵ nổi giận, vung gươm mắng:

– Chị em ta gửi sự nghiệp Thành Thang cho Cơ Phát*, nên chúng bay mới thành công, sao chẳng biết ơn còn bắt lại nghĩa là sao? 

Dương Tiễn nổi giận mắng:

– Loài nghiệt súc! Chớ nói nhiều lời, bay mau bó tay chịu trói.

Nói rồi xông vào hỗn chiến. Lôi Chấn Tử xông vào đón Ðát Kỷ lại đánh, Vi Hộ cũng xông vào đánh với Ngọc Mỹ Nhân.

Ðánh được một lúc, Dương Tiễn thả Hạo Thiên Khuyển ra, cắn con trĩ gãy hết một đầu, máu nhỏ ra từng giọt, song nó sợ quá quên cả đau đâm đầu chạy.

Bỗng thấy cặp phướn vàng xuất hiện, mùi hương thơm xông lên ngào ngạt, kế đó có hai tiên nữ theo hầu và Nữ Oa cưỡi hạc bay đến.

Ba con yêu bị hào quang chiếu vào mặt nên chạy không được, túng thế phải quỳ xuống thưa:

– Chúng tôi không ngờ nương nương đến nơi đây, nên nghênh tiếp trễ, xin nương nương thứ lỗi. Nay Dương Tiễn và hai tướng quyết đuổi bắt chúng tôi, xin nương nương cứu mạng.

Nữ Oa nói:

– Bích Vân! Ðem dây phược yêu trói chúng nó lại giao cho Dương Tiễn đem về nạp cho Tử Nha trị tội nó.

Bích Vân đồng nhi y lệnh.

Ba con yêu nghe nói vừa khóc vừa thưa:

– Năm xưa nương nương dùng phướn chiếu yêu gọi chị em tôi đến, sai vào cung cấm phá trí khôn Trụ vương, làm nhiều điều trái lẽ, phá tan tành cơ nghiệp Thành Thang. Chúng tôi vâng lệnh làm Trụ vương hết vây cánh, nước nhà nghiêng ngửa. Nay chúng tôi định đến tâu cùng nương nương thì bị Dương Tiễn và hai tướng đuổi theo. Xin nương nương cứu mạng chị em tôi. Nếu nương nương bắt chị em tôi giao nạp cho Tử Nha thì nương nương xuất hồ phản hồ sao?

Nữ Oa nói:

– Ta sai chúng bay phá cơ nghiệp vua Trụ là hợp ý Trời. Ta có dặn các ngươi là đừng giết hại kẻ vô tội. Song chúng bay không nghe, làm nhiều điều tội ác, giết cả tôi trung. Nay tội đáng chết, sao các ngươi dám bảo ta xuất hồ phản hồ?

Ba con yêu làm thinh, cúi mặt không nói một lời”.

Lời của Nữ Oa nương nương đã làm sáng tỏ một điều: Thần Phật hành sự thảy đều thuận theo Thiên ý. Là báo ứng, là trừng phạt, là ban phúc, là độ trì, tất cả đều không xuất phát từ yêu ghét cá nhân, mà đều chiểu theo Thiên lý. Nếu Hồ Ly tinh tuân theo lời dạy của Nữ Oa, chỉ khiến Trụ vương mê mệt mà bảo vệ trung lương, thì chính là thuận theo ý Trời, cuối cùng sẽ được ban thưởng. Nhưng Hồ Ly tinh rốt cuộc đã làm ra những tội ác thấu trời xanh, khiến chúng sinh đắm chìm biển lửa. Đáng thương thay! Âu cũng là định số của con người, sau an bài của Nữ Oa còn có an bài cao hơn. Để nhân gian tiêu trừ tội nghiệp, để vũ trụ tịnh hoá canh tân, để bè lũ yêu ma về sau trông vào, thế lực đen tối đừng mượn gió bẻ măng, miệng nói giúp Thần mà thực ra là để thỏa mãn tư tâm của chúng. 

Quả đúng là:

Ba yêu làm dữ hại tôi hiền,
Vua Trụ say mê đến ngửa nghiêng
Mới biết ngày nay Trời báo ứng,
Hết trông về ở mé Hiên Viên**.

Chú thích:
*Cơ Phát: Tên của Chu Võ vương.
**Hiên Viên: Chỉ Hiên Viên Hoàng Đế, đoạn này ý nói rằng ba con yêu tinh hết đường trở về mả Hoàng Đế như cũ.

Video: Trung Quốc: Chính quyền tàn bạo, vì sao dân phải chịu quả báo?

videoinfo__video3.dkn.tv||0e69d8366__