Sông núi nước Nam là nơi sản sinh ra những bậc anh hào. Đó là các cao nhân lừng danh kim cổ hay những bậc hiền tài để lại tiếng thơm nơi hậu thế. Nguyễn Mại là một danh nhân như thế.
Sử sách nhắc đến ông như một vị quan văn võ song toàn, quan lại cùng thời ca tụng ông là “bậc thần giáng Hải Đông”, là “quý nhân Nam quốc”, còn dân gian thì tôn vinh ông là Bao Công nơi đất Việt.
Vậy hãy chắp nối từ các ghi chép trong lịch sử và những lưu truyền trong dân gian để cùng đến với bậc hào kiệt của trời Nam.
Quận công Nguyễn Mại
Nguyễn Mại (1655-1720) là người làng Ninh Xá, huyện Chí Linh, Hải Dương. Năm 1691, ở tuổi 36 ông đỗ Hoàng Giáp (vị trí chỉ đứng sau Trạng Nguyên), và làm quan dưới triều vua Lê Hy Tông.
Nguyễn Mại nổi tiếng là người văn chương lại hữu dũng. Sách Đại Nam nhất thống chí mô tả ông là người “có sức khỏe, có mưu lược (…) có chính tích đặc biệt, trộm cướp phải nín hơi, xét kiện sáng suốt, danh vọng rất cao”. Còn Khâm định Việt sử thông giám cương mục thì viết: “Mại là người khỏe mạnh, có mưu lược lại giỏi bắn cung và cưỡi ngựa”. Trong đó cũng kể lại câu chuyện dũng khí của ông: “Một hôm, Lễ Phiên đang bàn việc, bỗng có con voi bị xổng, từ ngoài đi vào, khiến cho ai cũng hoảng hốt bỏ chạy, duy chỉ có Nguyễn Mại là thần sắc không hề thay đổi, vẫn đứng tiếp tục trình bày công việc như thường.”
Nguyễn Hoàn, một vị quan cùng thời, vốn là người nóng nảy, ưa cạnh tranh. Nhưng mỗi khi nhắc đến Nguyễn Mại, ông lại dành những lời thành kính và mến mộ. Ông từng viết bài “Tụng từ” ngợi ca Nguyễn Mại như sau:
“Văn kinh luân, võ tài lược, trong là cốt cán, ngoài là cánh vây. Chốn vương phủ sung Tri thủy Tri binh, đức vọng vòi vọi tựa Thái sơn Tung nhạc. Về địa phương là Đốc lãnh Đốc trấn, uy phong lẫm lẫm như nắng rực sương thu. Thanh danh vang vọng như chuông vàng nam lữ, tài nghệ sắc nét như thuyền thả Động Đình. Phép tắc nơi ba quân rành trong lòng bàn tay, lưu truyền tựa trí thần Tử Phòng tính toán. Cơ mưu chốn bát trận đầy sẵn trong bụng, tựa như tướng Gia Cát định quốc an dân (…) Tài đủ tiến lui, phong độ vững vàng, triều đình trông cậy”.
Với phẩm cách thanh cao quý, chính trực, không sợ cường quyền, Nguyễn Mại từng thẳng thắn chỉ trích lối sống xa hoa của chúa Trịnh. Cũng vì thế mà chúa Trịnh dù có phần phật ý nhưng vẫn kính nể và trọng dụng ông. Chúa Trịnh cũng là người giao cho ông trọng trách giữ thủy quân, sau làm đốc trấn Cao Bằng rồi chuyển về trấn thủ Sơn Tây.
Cũng tại trấn Sơn Tây, hay mảnh đất xứ Đoài này, mà chúng ta được biết đến tài năng xử án và xét đoán như thần của Nguyễn Mại. Hầu hết các câu chuyện xử án của ông được lưu truyền trong dân gian, dưới đây là một vài trong số đó.
Bao Công nơi đất Việt
Sách Đăng khoa lục sưu giảng viết rằng: Một lần Nguyễn Mại đi qua chợ Bảo Khám ở Gia Bình (Bắc Ninh), thấy người đàn bà mất màn (sách Hải Dương phong vật chí thì ghi là mất con gà) đang to tiếng chửi rủa. Có lẽ vì xót của mà bà ta lôi cả tam đời ngũ đại kẻ đánh cắp ra mà chửi. Ông bèn mắng người đàn bà này là ác khẩu, rồi sai tất cả người dân trong làng, cả già trẻ gái trai, đến vả vào má bà này. Mọi người vì sợ lệnh quan mà miễn cưỡng chấp hành, nhưng vẫn thương hại bà mà giơ cao đánh khẽ. Thế nhưng có một người lại ra sức tát mạnh. Nguyễn Mại lập tức cho bắt lại và tra hỏi. Quả nhiên đó chính là thủ phạm, vì bị chửi rủa mà căm phẫn bất bình.
Một lần khác khi đang vi hành chợ Sơn Tây, ông thấy hai người đàn bà đang giành nhau một tấm lụa. Ông phân xử xé đôi tấm lụa cho mỗi người một nửa. Sau đó, một người cầm mảnh lụa vui vẻ rời đi, còn người kia vẫn quỳ đó mà khóc lóc kêu than. Ông bèn phán: “Phàm chỉ có người làm ra tấm lụa mới biết trân trọng, tiếc công sức của mình. Còn chỉ biết hưởng công sức người khác thì mới hí hửng nhường ấy”. Nhờ đó mà ông đã tìm lại chủ nhân chân chính của tấm lụa. Đó cũng là vụ án xé đôi tấm lụa nổi tiếng trong dân gian.
Một vụ án cũng nổi tiếng không kém là vụ trộm chuối. Đó là lần Nguyễn Mại đi qua làng Đông Ngạc ở Từ Liêm (Hà Nội), ông gặp người đàn bà kêu mất buồng chuối. Ông nhìn vết chặt còn mới, đoán biết là kẻ trộm chỉ ở quanh đây. Ông liền ra lệnh cho người làng ra vét ao đình. Sau đó, ông sai mọi người rửa tay sạch để nhận trầu cau. Duy nhất có một người dù đã rửa tay nhưng vẫn lấm lem bùn đất. Nguyễn Mại cho bắt kẻ đó lại và phán rằng: “Chỉ có bàn tay dính nhựa chuối, lại ngâm xuống bùn thì mới bẩn, không dễ rửa sạch như vậy”. Người này sau đó không thể chối cãi, phải trả lại buồng chuối đã lấy.
Ngoài những vụ án phân xử công minh, Nguyễn Mại còn có tài năng và đức độ cảm hóa lòng người.
Khi còn là Đốc trấn Cao Bằng, ông từng phải đối phó với giặc cướp từ Quảng Tây tràn sang. Nhận thấy đám giặc phì thực ra chỉ là nông dân nghèo, vì quá đói khổ nên mới tìm đường trộm cướp. Ông chỉ hạ lệnh bắt rồi thả chứ không xét xử, thậm chí có lần còn cung cấp lương thực trước khi trả về. Cứ như vậy, ba lần bắt rồi thả, bắt rồi thả, đám giặc phì phương Bắc cảm động ân đức mà thôi không quấy nhiễu.
Về sau khi làm quan trấn Sơn Tây, công sở của ông bất ngờ bị cháy. Đám cháy lan sang cả nhà ngục, nơi giam giữ những bọn đầu trộm đuôi cướp của xứ Đoài. Ông không ngần ngại sai người mở cửa ngục, thả tất cả tù nhân ra ngoài. Mặc dù có cơ hội lẩn trốn, tìm đường đào tẩu, nhưng bất ngờ là tất cả tù nhân đều cùng nhau dập lửa. Sau đó, không ai bảo ai, bọn họ đều trở lại trại giam không sót một ai. Nguyễn Mại phải có một tâm hồn cao thượng và một tài năng đức độ đến nhường nào thì mới có thể cảm hóa những kẻ được gọi là” lưu manh vô lại” ấy.
Nổi tiếng là vị quan thanh liêm, cương trực, trong cuộc đời làm quan đã lập nhiều công trạng hiển hách, nhưng cuối đời ông lại chịu nhiều oan khiên và chết trong bí ẩn. Có tài liệu nói là vì mạo phạm can gián chúa Trịnh mà ông bị ám sát khi còn đương chức. Nhiều năm sau khi Nguyễn Mại qua đời, đất nước rối ren, xã hội tao loạn, hai hậu duệ của ông cầm quân khởi nghĩa chống lại triều đình. Vì lý do này mà mộ Nguyễn Mại bị đào lên, xương cốt ném xuống sông; bản thân ông cũng bị thêu dệt nhiều chuyện thị phi. Nhưng dẫu sự đời đổi trắng thay đen thì người dân xứ Đoài vẫn không quên truyền tai nhau những giai thoại đẹp về một tấm lòng trong sạch, một tài năng đức độ, một vị quan thanh liêm sáng suốt, và một vị Bao Công của nước Việt lưu danh ngàn đời.
Quả đúng là:
Ngô Đồng Nguyễn Mại danh hữu bỉnh
Minh mẫn thiên tư trù dữ tịnh
Xuân khoa nhị giáp đạt cao tiêu
Tây trấn lục niên thi đức chính
Đồn khuyển can thường tôi hữu dư
Xuân thu di bút công hàm lệnh
Triết đàn cổ thụ bạch vân đê
Trật điển khoa chương hồng nhật quýnh
Cố lý hưu đàm văn hiệu dĩ
Di phong đạo khởi nhân chiêm kính.
(Chí Linh phong vật chí)
Dịch nghĩa:
Ông Nguyễn mại làng Ngô Đồng* danh tiếng lừng lẫy
Thiên tư minh mẫn dễ ai sánh bằng
Khoa xuân đậu cao đệ nhị giáp
Trấn Sơn Tây sáu năm làm quan có đức chính
Chó lợn can tội thường có dư
Bút Xuân thu chép thì có hại gì đến danh giá ông
Nền thờ bậc hiền triết, cây cỏ mây phủ trắng
Sắc phong tự điểm như mặt trời sáng tỏ
Làng cũ thường bàn đến danh hiệu của ông
Di phong của ông làm cho người sau kính phục.
(*Ngô Đồng là tên gọi khác của làng Ninh Xá, còn gọi là làng Nành, ở Chí Linh, Hải Dương.)
Hồng Liên
Xem thêm: