Trong lịch sử, có một vị minh quân thương dân như con, ngay cả một bộ xương khô cũng được ông ban ân huệ. Hãy cùng tìm hiểu xem vị vua ấy đức độ như thế nào?
Có câu: “Làm việc chính sự thể theo Đức, ví như ngôi sao Bắc Đẩu, ở nguyên một chỗ mà các vì sao đều xoay quanh”. Người ta cũng thường nói tâm của bậc Thánh nhân chiếu sáng khắp đất trời là bởi Đức của Thánh nhân phù hợp với ý Trời. Thánh nhân có thể chứng ngộ được chân lý của vũ trụ, cứu giúp muôn dân trong thiên hạ, làm được nhiều việc thiện lành đức độ cho đời, từ đó được người người ngưỡng mộ. Phần lớn các vị Thánh hiền minh quân đều tuân thủ nghiêm ngặt Đạo Trời, lấy đạo đức để giáo hóa nhân dân, làm cho quốc thái dân an.
Cuối thời nhà Thương, Cơ Xương là Tây Bá Hầu (đứng đầu các nước chư hầu phía Tây), sau này trở thành Chu Văn Vương. Văn Vương cai quản Tây Chu, theo đuổi phương cách trị quốc bằng lòng nhân đức, cho rằng làm việc chính sự là: “Lấy Đức để thuận hợp với Trời, kính trọng Đức bảo vệ nhân dân, cẩn thận nếu dùng hình phạt”.
Ông đẩy mạnh giáo dục, chỉ ra rằng: “Làm vua cần phải dựa vào dân mà làm việc, làm quan cần phải cẩn thận, làm con cái cần phải hiếu thuận, làm cha mẹ cần phải biết yêu thương, người trong nước giao du với nhau cần phải có thành tín”. Chu Văn Vương giáo dục mọi người cần phải có lòng dạ đoan chính, kính Trời, trọng Đức.
Văn Vương lấy bản thân làm gương, làm việc gì cũng hết sức cần cù, cẩn thận. Ông sống cần kiệm, mặc quần áo như thường dân, còn ra đồng cùng lao động với mọi người. Vua chế định ra rất nhiều biện pháp làm lợi cho dân, ví như giảm tô thuế, giúp dân dành dụm được tiền của.
Ông chọn dùng chính sách “Cửu nhất nhi trợ”, nghĩa là cho phép nông dân làm ruộng của công, chỉ phải nộp 1/9 tiền thuế so với bình thường. Thương nhân lui tới miền đất này buôn bán không phải nộp thuế quan. Người nào phạm tội thì vợ con của kẻ ấy không bị liên lụy. Đối với những người cùng khổ không có khả năng lao động thì kịp thời trợ giúp và chăm sóc. Đối với rất nhiều người có đức có tài, bởi vì can ngăn Trụ vương làm ông ta nổi giận lưu lạc đến đây nhờ cậy, Văn Vương đều tiếp đãi đường hoàng, trao cho quan chức. Như Tán Nghi Sinh, Nam Cung Hoát, Thái Điên, Hoằng Yểu, Tân Giáp đều lần lượt kéo tới quy thuận làm bề tôi của Văn Vương.
Hai nước Ngu, Nhuế đều là chư hầu ở phía Tây nhà Thương. Hai vua vì biên giới ở Điền Dã mà nảy sinh tranh chấp, thế nhưng họ không muốn tìm Trụ Vương để nhờ vả, mà đều ái mộ uy danh của Văn Vương, tới xin Văn Vương thẩm định giúp. Trong “Thi kinh – Đại Nhã – Miên” có ghi chép: Hai vị vua thấy nước Chu “Vào miền đất này, thì nông dân tránh lối, người đi đường cũng nhường đường”, “vào ấp này, nam nữ đi trên 2 con đường khác nhau, người có tuổi không phải mang vác nặng vì luôn được người trẻ tự nguyện giúp đỡ”, “vào triều đình, quan sĩ nhường quan đại phu, quan đại phu nhường quan khanh”. Tất cả mọi người ở nước Chu đều có tác phong cao thượng của người quân tử.
Hai vị vua thấy thế thì tự so sánh với nước mình, trong lòng cảm thấy rất xấu hổ, nói với nhau: “Tiểu nhân như chúng ta, mặt mũi nào dám lên điện diện kiến bậc quân tử để mà nhờ phân xử được đây?”. Thế là còn chưa gặp Văn Vương, bọn họ đã đều chủ động nhường vùng đất vốn đang tranh giành nhau ấy cho đối phương. Kết quả là hai bên đều nhường nhau không chịu giữ, vùng đất đó bị để không, người đời sau gọi đó là “Nhàn điền” hay là “Nhàn nguyên”. Chư hầu xung quanh nghe được chuyện này, đều lấy Văn Vương làm gương mẫu. Họ ùn ùn kéo tới xin quy thuận, hình thành cục diện “chia 3 thiên hạ, nhà Chu giữ 2 phần”.
Thương dân như con, ban ân huệ cho cả bộ xương khô
Nước Chu nhân dân an cư lạc nghiệp, không ai nhặt của rơi, đêm không cần đóng cửa, nơi nơi đều một cảnh hạnh phúc an bình. Một lần, Văn Vương bàn bạc với quần thần: “Xứ Tây Kỳ ta là vùng đất đạo đức, người đông vật nhiều. Ta muốn chiêm nghiệm điều cát hung cho trăm họ, xây dựng một linh đài để xem điềm lành dữ, nhưng lại sợ làm dân chúng lao khổ”. Tán Nghi Sinh nói: “Đại Vương xem việc lành dữ mà dựng linh đài, hoàn toàn là vì nhân dân Tây Kỳ, đâu phải là vì để ngắm cảnh nghe nhạc, muôn dân tất nhiên sẽ vui lòng phục vụ. Nếu Ngài không thể tùy tiện sử dụng sức dân, thì vẫn trả tiền công cho dân, để tùy dân tự nguyện, không cưỡng chế họ, như thế không có hại gì cả”.
Thế là Văn Vương bèn thông báo cho quân và dân đều biết. Quân dân xem xong cáo thị đều vui vẻ nói: “Chúng ta được Đại Vương dạy dỗ, đều hiểu biết trung hiếu, tiết tháo và lễ nghĩa. Theo đó mà làm, chuyện gì cũng không thiếu sót. Ngày nay Đại Vương vì chúng ta mà xây đài chiêm nghiệm cát hung, làm sao lại nhận tiền công của Đại Vương cho được?”. Mọi người hăng hái xây đài, chỉ vài hôm đã xong. Văn Vương thương dân, xem mỗi người dân đều như người ốm đau thống khổ đáng thương. Ông từ bi và cảm thông với trăm họ như vậy đó.
Có lần Văn Vương đi tuần tra xem xét ở vùng ngoại ô, gặp một số xương khô nằm phơi nơi đồng không mông quạnh. Ông lập tức lệnh cho tùy tùng mai táng đàng hoàng chỗ xương khô ấy. Những người tùy tùng nói: “Đại Vương, những xương khô đó đều là vô chủ, cần gì phải thương xót chứ?”.
Văn Vương nói: “Người có được Thiên hạ, thì chính là chủ nhân của Thiên hạ. Người có được một đất nước, thì chính là chủ nhân của đất nước ấy. Ta vốn là tang chủ của những người chết ấy, sao lại nói là vô chủ!”. Tùy tùng nghe xong vô cùng cảm động, thế là cẩn thận mai táng đường hoàng cho số xương khô ấy. Người trong thiên hạ nghe chuyện Văn Vương không đành lòng để hài cốt của người chết phơi nắng phơi mưa, đều nói: “Tây Bá Hầu ban ân huệ cho cả xương khô, đối với người còn sống còn trân trọng đến đâu?”.
Đạo hợp với ý Trời, tôn kính hiền tài
Trụ Vương bạo ngược vô đạo, Văn Vương dâng thư khuyên can: “Thể theo đức hiếu sinh của Thiên thượng, kính trọng và tuân theo Mệnh Trời, bỏ nịnh trừ gian, thì muôn dân thật là may mắn”. Trụ Vương xem xong nổi giận, lại có Sùng Hầu Hổ âm thầm gièm pha: “Cơ Xương làm việc thiện khắp nơi, lòng dân quy thuận, các chư hầu đều hướng về hắn, sợ rằng sẽ bất lợi cho Đại Vương”.
Trụ Vương bèn giam Văn Vương tại Dữu Lý suốt 7 năm (nay là huyện Thang Âm, tỉnh Hà Nam). Ở Dữu Lý, Văn Vương làm quân dân địa phương trở nên hướng thiện. Ông dạy họ tu thân, hiểu biết lễ nghi. Ông còn chiếu theo đạo lý của Trời Đất mà dốc sức nghiên cứu, sáng tạo ra Chu Dịch. Lấy “Tiên thiên Bát Quái” của Phục Hy diễn hóa thành 64 quẻ, cộng với 384 hào, trong đó có chứa sự kỳ diệu của tạo hóa Đất Trời, thiên cơ bất trắc của Âm Dương.
Văn Vương hiểu rất sâu sắc rằng muốn quản lý đất nước được tốt thì cần phải trọng dụng người có đức có tài. Câu chuyện xưa kể về việc ông đích thân đến Bàn Khê thỉnh mời Khương Tử Nha vẫn được người đời truyền tụng tới tận ngày nay. Văn Vương nghe nói Khương Tử Nha có đạo đức cao thượng, học thức uyên bác, là người đại tài đại đức đương thời, bèn lựa ngày tốt, trai giới xông hương, cực kỳ chân thành tự mình dẫn người tới thỉnh mời.
Trong lúc nói chuyện, Văn Vương thấy Khương Tử Nha tấm lòng bao la, có tài năng kinh thiên động địa, có chí khí cứu đời an dân, nên vui vẻ nói: “Khi cha ta còn sống từng nói với ra rằng: Tương lai nhất định sẽ có người tài đức giúp con làm cho nhà Chu hưng thịnh. Ông chính là nhân tài mà tổ phụ của ta kỳ vọng”. Nói xong vua mời Khương Tử Nha cùng ngồi một xe trở về cung, trù tính nghiệp lớn, trị nước an dân. Bởi Khương Tử Nha là người tài mà tổ phụ của Văn Vương hằng kỳ vọng, cho nên được mọi người tôn kính gọi là: Khương Thái Công.
Khương Tử Nha quả nhiên không phụ lòng mọi người, phò tá Văn Vương chăm lo việc nước, sau này lại phò tá Vũ Vương đánh Trụ, thống nhất thiên hạ. Ông cũng mở đường sáng lập nên đạo lý trong việc trị quốc an bang để lại cho đời sau.
Khổng Tử nói: “Đạo Đức của Văn Vương vĩ đại phi thường. Không cố ý làm bất kể việc gì mà khiến thế gian phát sinh biến hóa. Không cố ý làm bất cứ việc gì mà lại vươn tới thành công, đó là bởi vì Văn Vương luôn luôn nghiêm khắc trong việc tu dưỡng bản thân và đối xử khoan dung hòa nhã với người khác”.
Chân Tâm