Tác giả: Tiết Trì
Tử viết: “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ? Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ? Nhân bất tri nhi bất uẩn, bất diệc quân tử hồ?” («Luận Ngữ – Học Nhi – 1»)
【Chú thích】
- Tử (子): Tôn xưng. Ở đây đặc biệt chỉ Khổng Tử. Cố Viêm Vũ trong «Nhật Tri Lục» viết: “Chế độ nhà Chu có Công, Hầu, Bá, Tử, Nam là năm tước vị, còn đại phu dù cao quý cũng không dám xưng ‘Tử’.” “Sách «Xuân Thu» từ sau thời Hy Công, Văn Công thì các khanh tướng chấp chính mới bắt đầu xưng ‘Tử’, về sau thì thường dân được giới học giả tôn sùng cũng được xưng ‘Tử’, Lão Tử và Khổng Tử là những trường hợp như vậy.”
- Học (學): «Thuyết Văn» giải: “Học, là giác ngộ vậy.” Tức là “giác ngộ điều mình chưa biết” («Bạch Hổ Thông»).
- Thời (時): Vào một thời điểm nhất định, hoặc vào thời điểm thích hợp. Chu Hy đời Nam Tống giải là “thường xuyên”, cũng thông nghĩa.
- Tập (習): Nghĩa rộng, như luyện tập, diễn tập, thực tập, ôn tập v.v., đều chỉ việc nội hóa những gì đã học thành của riêng mình. «Sử Ký – Khổng Tử Thế Gia» chép: “Khổng Tử rời nước Tào đến nước Tống, cùng các đệ tử diễn tập lễ nghi dưới một gốc cây lớn.”
- Thời tập (時習): Tiền Mục trong «Luận Ngữ Tân Giải» chỉ ra có ba cách giải thích. “Một là chỉ theo năm tháng. Người xưa sáu tuổi bắt đầu học chữ, bảy tám tuổi dạy các lễ tiết đơn giản hàng ngày, mười tuổi dạy viết lách tính toán, mười ba tuổi dạy ca hát, thơ phú, vũ đạo, đây là lấy năm làm ‘thời’. Hai là chỉ theo mùa. Người xưa xuân hạ học thơ nhạc đàn ca, thu đông học thư pháp, lễ nghi, bắn cung, săn bắn, đây là lấy mùa làm ‘thời’. Ba là chỉ theo sớm tối. Ôn tập, tu dưỡng, đi dạo, nghỉ ngơi, đều theo thời gian mà làm. ‘Tập’ giống như chim học bay, lặp đi lặp lại nhiều lần. Người học hành cũng nên ngày này qua ngày khác, giờ này qua giờ khác, năm này qua năm khác, lặp đi lặp lại không ngừng, già mà không mệt mỏi.”
- Duyệt (說): Đồng nghĩa với “悅” (vui vẻ, vui mừng). Trong nhà Phật cũng có khái niệm “pháp duyệt” hay “pháp hỷ”, «Kinh Hoa Nghiêm – Quyển 2» có câu: “Âm thanh của Phật có thể khởi lên tâm hoan hỷ, khiến khắp chúng sinh được pháp hỷ.”
- Bằng (朋): «Kinh Dịch – Quẻ Đoài – Tượng» viết: “Quân tử dĩ bằng hữu giảng tập.” Khổng Dĩnh Đạt giải thích: “Cùng một thầy gọi là ‘bằng’, cùng chí hướng gọi là ‘hữu’. Bằng hữu tụ họp, cùng nhau giảng tập đạo nghĩa.”
- Quân tử (君子): Có thể chỉ “người có đức”, cũng có thể chỉ “người có địa vị”, người có đức không nhất định có địa vị. Ở đây chỉ “người có đức”.
- Uẩn (慍): Giận dữ. Chu Hy cho rằng ‘uẩn’ không phải là đại nộ, mà “trong lòng hơi có ý không vui” thì chính là ‘uẩn’. (Chu Hy «Chu Tử Ngữ Loại»)
【Thảo luận】
«Luận Ngữ» mở đầu bằng ba câu này, ắt hẳn có thâm ý. Có người nói “một bộ «Luận Ngữ» không có hệ thống về mặt hình thức”, thực ra không phải vậy. «Luận Ngữ» là thể loại ghi chép lại lời nói, do các học trò đời sau của bảy mươi hai học trò hiền của Khổng Tử thảo luận và biên soạn thành. Tại sao lại biên soạn như vậy, tự nó có logic riêng, chỉ là ẩn mà không hiện rõ mà thôi. Mặt khác, Khổng Tử là thánh nhân, đệ tử có bảy mươi hai hiền nhân, lời của thánh hiền có ý nghĩa rất sâu rộng đối với con người. Người đời sau chỉ cần không mang ý thức chống đối truyền thống, thì hiểu thế nào cũng không sai (chỉ là nông sâu khác nhau), điều này cũng giống như “thơ không có cách giải thích duy nhất” vậy.
Theo thiển ý của tôi, “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ? Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ? Nhân bất tri nhi bất uẩn, bất diệc quân tử hồ?” ba câu này vừa là bức chân dung về cuộc đời Khổng Tử, vừa là tinh túy của toàn bộ sách «Luận Ngữ» với hơn 15.000 chữ.
Cuộc đời của Khổng Tử như thế nào? Phu tử tự thuật: “Ta mười lăm tuổi dốc lòng học hỏi, ba mươi tuổi tự lập, bốn mươi tuổi không còn nghi hoặc, năm mươi tuổi biết mệnh trời, sáu mươi tuổi nghe điều gì cũng thuận tai, bảy mươi tuổi có thể làm theo lòng mình muốn mà không vượt ra ngoài quy củ.” («Luận Ngữ – Vi Chính»)
Khổng Tử ham học, tự xưng rằng “Một ấp mười nhà, ắt có người trung tín như ta, nhưng không bằng ta ham học.” («Luận Ngữ – Công Dã Tràng») Chính vì Khổng Tử “chí tại việc học”, nên tự nhiên có thể “học mà thường xuyên ôn tập, chẳng phải vui lắm sao”. Đối với người bình thường, lúc bắt đầu học có lẽ là “chẳng phải khổ lắm sao”, làm thế nào để từ khổ biến thành vui? Mấu chốt là phải có “chí”. Dĩ nhiên, là “lập chí lâu dài” chứ không phải “thường xuyên lập chí”. Chí đã lập, rèn luyện chí, dần dần học có sở đắc, niềm vui cũng ở trong đó. Điều này không phải trừu tượng, mà là thực tại, là một cảnh giới. Nếu một người chỉ biết đạo lý ăn cơm có thể hết đói mà không được ăn cơm, thì vẫn đói mà thôi! Phải thực sự ăn cơm mới có thể hết đói. Nhan Hồi là đệ tử được Khổng Tử yêu quý nhất, ông có thể “một giỏ cơm, một bầu nước, ở trong ngõ hẹp, người khác không chịu nổi cái khổ đó, còn Hồi thì không thay đổi niềm vui của mình.” («Luận Ngữ – Ung Dã») Đây có lẽ là một cảnh giới khá cao của việc ham học. Khổng Tử lại nói “Người biết đạo không bằng người thích đạo, người thích đạo không bằng người vui với đạo.” («Luận Ngữ – Ung Dã») Còn bản thân Khổng Tử thì sao? Sống đến già, học đến già. Tuổi già học «Kinh Dịch», đến nỗi dây da bò buộc các thẻ tre bị đứt ba lần. Ông tự nói về mình: “Con người ta, khi phấn chấn thì quên ăn, vui thì quên lo, không biết rằng tuổi già sắp đến.” («Luận Ngữ – Thuật Nhi») Học cái gì? Học Đạo. “Sáng nghe được Đạo, tối chết cũng cam lòng” («Luận Ngữ – Lý Nhân»). Hai chữ “học” và “vui” có thể nói là xuyên suốt cuộc đời Khổng Tử.
Khổng Tử từ “mười lăm tuổi dốc lòng học hỏi”, đến “ba mươi tuổi tự lập”, tạo nên trường phái riêng, mở trường dạy học, danh tiếng vang xa, học trò từ bốn phương tìm đến. Dĩ nhiên, không phải ai cũng có thể như Khổng Tử, nhưng một người “chí tại việc học”, ít nhiều cũng có niềm vui “có bạn từ phương xa đến”, những người cùng chí hướng cùng nhau trao đổi, mài giũa, đúng như câu “quân tử lấy văn chương để kết bạn, lấy bạn bè để giúp đỡ cho đức nhân” («Luận Ngữ – Nhan Uyên»). Mà ý nghĩa sâu xa hơn của “có bạn từ phương xa đến, chẳng phải vui lắm sao” thì như «Lễ Ký – Học Ký» đã nói: “Học đến đại thành, đủ để giáo hóa dân chúng, thay đổi phong tục, người gần thì vui lòng quy phục, người xa thì mến mộ tìm về.” Thông qua học tập, “tu sửa bản thân để an định người khác”, “tu sửa bản thân để an định trăm họ”, đây cũng là bước đầu của vương đạo, là bậc thềm để vào cõi thánh vậy.
Khổng Tử cả đời ham học, cảnh giới sinh mệnh không ngừng nâng cao, đến mức đạt tới cảnh giới của thánh nhân. Điều này thể hiện ở đâu? “Năm mươi tuổi biết mệnh trời, sáu mươi tuổi nghe điều gì cũng thuận tai, bảy mươi tuổi có thể làm theo lòng mình muốn mà không vượt ra ngoài quy củ.” Ở đây xin nói sơ qua về “năm mươi tuổi biết mệnh trời”. Năm 497 TCN, Khổng Tử bắt đầu chu du các nước, năm đó ông đã 55 tuổi. Chu du các nước không được trọng dụng, còn mấy lần gặp nguy hiểm, “thất thểu như con chó mất chủ” («Sử Ký – Khổng Tử Thế Gia»). Không ít ẩn sĩ đã khuyên can ông, Khổng Tử cũng biết thời cuộc lễ băng nhạc hoại, khó lòng xoay chuyển, tại sao vẫn cứ chu du các nước? Vì Khổng Tử biết đây là thiên mệnh của mình, “biết là không thể làm được mà vẫn làm” («Luận Ngữ – Hiến Vấn»), để lại cho dân tộc Trung Hoa một huyết mạch tinh thần. Tuy không thể khai sáng một triều đại vĩ nghiệp như Thương Thang, Chu Văn Vương, Võ Vương, Chu Công, nhưng ông đã cứu đời bằng cách trở thành “vạn thế sư biểu” (người thầy của muôn đời). Năm Đại Đức thứ mười đời Nguyên (1306), Nguyên Thành Tông gia phong cho Khổng Tử là “Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương”, từng đánh giá rằng “Những bậc thánh nhân trước Khổng Tử, nếu không có Khổng Tử thì không ai làm sáng tỏ; những bậc thánh nhân sau Khổng Tử, nếu không có Khổng Tử thì không có ai để noi theo.” Như vậy, nhìn lại câu “người không biết đến mình mà không giận, chẳng phải là bậc quân tử sao”, thật sự đã nói lên tấm lòng của bậc thánh nhân.
Tóm lại, “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ? Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ? Nhân bất tri nhi bất uẩn, bất diệc quân tử hồ?” Ba câu này vừa là danh ngôn chí lý, vừa là sự khái quát cao độ về cuộc đời Khổng Tử, thống lĩnh toàn bộ sách «Luận Ngữ». Độc giả hãy nghiền ngẫm kỹ, ắt sẽ tự biết được hương vị của nó.
Tài liệu tham khảo chính:
- «Luận Ngữ Chú Sớ» (Bản có dấu chấm câu trong bộ Thập Tam Kinh Chú Sớ, Lý Học Cần chủ biên, Nhà xuất bản Đại học Bắc Kinh)
- «Luận Ngữ Dịch Chú» (Dương Bá Tuấn soạn, Trung Hoa Thư Cục)
- «Luận Ngữ Tân Giải» (Tiền Mục soạn, Tam Liên Thư Điếm)
- «Luận Ngữ Tam Bách Giảng» (Phó Bội Vinh soạn, Công ty Xuất bản Liên hợp Bắc Kinh)
- «Luận Ngữ Dịch Chú» (Kim Lương Niên soạn, Nhà xuất bản Cổ tịch Thượng Hải)
- Trọn bộ Bàn về Luận ngữ của Khổng Tử
Theo Epoch Times