“Tam Quốc Diễn Nghĩa” là bộ tiểu thuyết đầu tiên thuộc thể loại chương, hồi của Trung Quốc. Toàn bộ tác phẩm xoay quanh chữ “Nghĩa” và cuộc chiến phân chia quyền lực của ba thế lực phong kiến Ngụy, Thục và Ngô, với ba người đứng đầu là Tào Tháo, Lưu Bị và Tôn Quyền. Ngoài ra trong bộ tiểu thuyết này còn có một số nhân vật cao nhân bí ẩn, vì “chán ghét” danh lợi thế gian mà sống ẩn cư nơi núi sâu rừng già cũng đã được đưa ra. Dưới đây là 7 vị cao nhân vừa kỳ bí, vừa tài giỏi ấy.
1. Quản Lộ
Ông là một thuật sĩ nước Ngụy thời Tam quốc, tự là Công Minh, người Bình Nguyên (Bình Nguyên, Sơn Đông ngày nay). Năm 8, 9 tuổi, luôn thích ngẩng đầu quan sát các ngôi sao trên bầu trời. Sau khi trưởng thành, ông tinh thông “Chu Dịch”, giỏi về bói toán, tướng thuật, học được ngôn ngữ của loài chim. Tương truyền rằng trong mỗi một lời nói của ông, đều sâu sắc tựa “xuất thần nhập hóa”, khiến người đời kính phục.
Quản Lộ là thuật sĩ nổi tiếng trong lịch sử, được người đời sau tôn sùng và phong là tổ sư của bói toán và xem tướng. Ông đã để lại rất nhiều tác phẩm, trong đó có “Chu Dịch Thông Linh Quyết”, “Chu Dịch Thông Linh Yếu Quyết”, “Phá Táo Kinh”, “Chiêm Ki”… Trong Tam quốc chí – phương kĩ truyện đã xếp thuật bói toán của Quản Lộ ngang hàng với “y thuật của Hoa Đà, thanh nhạc của Đỗ Quỳ, tướng thuật của Chu Kiến Bình, tướng mộng của Chu Tuyên”.
Trong “Tam Quốc diễn nghĩa” có kể rằng, trong một lần, Quản Lộ đã coi bói cho Tào Tháo và tiên đoán về việc xảy ra hỏa hoạn ở Hứa Đô và Tào Tháo sẽ mất đi một viên tướng ở núi Định Quân. Về sau, những lời này đều ứng nghiệm. Trận chiến trên núi Định Quân, tướng Hạ Hầu Uyên bên Tào Nguỵ bị tướng Hoàng Trung của Thục Hán dùng kế chém chết.
2. Mạnh Tiết
Trong “7 lần bắt Mạnh Hoạch”, Gia Cát Lượng đã được người anh của Man vương Mạnh Hoạch, hiệu là “Vạn An ẩn giả” giúp đỡ. Mạnh Hoạch khởi binh tạo phản, Mạnh Tiết nhiều lần khuyên can, nhưng Mạnh Hoạch không để ý, ông đành phải ẩn cư trong rừng sâu. Khi Gia Cát Lượng dẫn quân chinh phạt, quân sĩ bởi vì uống phải nước sông câm mà bị mất tiếng. Mạnh Tiết đã lấy nước của suối An Lạc giúp Gia Cát Lượng giải trừ kiếp nạn này, lại dạy quân Thục ngậm lá giới diệp vân hương để tránh độc khí.
Về sau, Gia Cát Lượng muốn tâu với Hoàng đế Lưu Bị về việc lập Mạnh Tiết lên làm vua xứ Nam Man nhưng Mạnh Tiết từ chối. Gia Cát Lượng bèn lấy vàng và tơ lụa ra tặng nhưng Mạnh Tiết vẫn từ chối, sống cuộc đời không màng danh lợi.
Hoa Đà, tự là Nguyên Hóa, tên thật là Phu, người ở huyện Tiêu, nước Bái thuộc Dự châu (Hào Châu, tỉnh An Huy ngày nay), là thần y nổi tiếng vào cuối thời Đông Hán. Lúc còn nhỏ ông từng du học bên ngoài, nghiên cứu y thuật, không màng đến con đường làm quan. Tinh thông y thuật, đặc biệt là giỏi về ngoại khoa, được người đời sau xưng tụng là “Thánh thủ ngoại khoa”, “ông tổ ngoại khoa“. Ông đã phát minh ra “ma phi tán” là loại thuốc gây tê dùng trong phẫu thuật được ghi chép sớm nhất trong lịch sử y học thế giới.
Ngũ cầm hí, một bộ các động tác khí công cổ đại do danh y Hoa Đà để lại. (Ảnh: Kaleidoscope)
Tương truyền ông là người sáng tác ra “Ngũ Cầm Hí”, mô phỏng điệu bộ của năm loài thú là cọp, nai, gấu, khỉ và chim. Sách “Hậu Hán thư phương thuật” ghi lại lời nói của Hoa Đà: “…Ta có một thuật gọi là Cầm Hí… có thể dùng để chữa bệnh, vừa có lợi ích như phép đạo dẫn. Nếu thân thể không được thoải mái, hãy thực hiện một động tác hí thì mồ hôi sẽ xuất ra, nhân đó làm cho thân thể nhẹ nhàng và thèm ăn…”
Trong tuyệt tác “Tam Quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung thì Hoa Đà đã từng trị thương cho Chu Thái bên Đông Ngô. Hoa Đà còn chữa bệnh cho Quan Công theo phương thức “cạo xương, trị độc”. Quan Công trong trận đánh Phàn Thành bị trúng một mũi tên thuốc độc ngấm vào tới xương. Sau khi đến chẩn bệnh và được sự đồng ý của Quan Công, Hoa Đà đã trị bệnh cho Quan Công bằng cách dùng dao nhọn rạch chỗ thịt ấy tới xương, cạo sạch chất độc do mũi tên đâm vào, trong lúc đó Quan Công vẫn bình thản đánh cờ với mã Lương.
Về sau, Tào Tháo bị bệnh cũng nhờ Hoa Đà chữa trị. Nhưng do bản tính đa nghi, khi được Hoa Đà khuyên nên làm thủ thuật mổ sọ để lấy khối u trong não ra, Tào Tháo lại cho rằng Hoa Đà muốn giết mình nên tống ông vào ngục. Hoa Đà vì cảm kích người gác ngục họ Ngô đã chăm sóc mình khi đang ở trong ngục nên đã truyền sách của mình cho Ngô Áp Ngục. Tuy nhiên, do vợ của Ngô Áp Ngục lo sợ chồng mình theo nghề y sẽ có kết cục bi thảm như Hoa Đà nên đã lén đốt mất. Do đó tất cả sách vở của Hoa Đà về nghề y đã thất truyền. Hiện tại còn thấy “Trung Tàng kinh”, “Hoa Đà thần Y bí truyền… đều là người sau mượn tên tiếng, không phải tự tay ông viết ra.
4. Lâu Tử Bá
Người giúp Tào Tháo đánh Mã Siêu. (Ảnh: wap.chinaiiss)
Tào Tháo chinh phạt Mã Siêu, đóng quân ở sông Vị, hai bên giằng co mãi bất phân thắng bại. Lâu Tử Bá ẩn cư ở núi Chung Nam đã nhắc nhở Tào Tháo rằng dùng binh phải biết thiên thời, dạy cho Tào Tháo cách tưới nước đóng băng đắp thành, khiến cho quân Tào chỉ trong một đêm xây xong thành đất và đánh bại quân Mã Siêu. Sau khi mọi chuyện đã thành, Lâu Tử Bá được Tào Tháo ban thưởng nhưng ông không nhận, phiêu nhiên tự tại mà rời đi, Tào Tháo vô cùng ngưỡng mộ.
5. Bàng Đức Công
Bàng Đức Công là danh sĩ thời Đông Hán, người Tương Dương. Quan thứ sử Kinh Châu Lưu Biểu dù đã mấy lần mời ông vào phủ, nhưng đều không được. Lưu Biểu hỏi ông không nhận lộc quan, thì lấy gì để lại cho con cháu sau này. Ông trả lời rằng: “Thứ mà người đời để lại cho con cháu chính là thói xấu ham muốn hưởng lạc, ham ăn biếng làm. Thứ mà ta để lại cho con cháu là làm ruộng đọc sách, sống cuộc sống an cư lạc nghiệp. Cái để lại khác nhau mà thôi!”.
Ông có cách nhìn đời rất khác với các nhân vật chính trị thời bấy giờ. (Ảnh: 5011)
Bàng Đức Công có quan hệ thân thiết với các danh sĩ thời ấy là Tư Mã Huy, Bàng Thống, Gia Cát Lượng. Ông gọi Gia Cát Lượng là Ngọa Long, Tư Mã Huy là Thủy Kính, Bàng Thống là Phượng Sồ. Khi Lưu Bị viếng thăm, Thủy Kính mượn lời của đồng tử nhắc nhở đồng thời tiết lộ thiên cơ cho Bị: “Ngọa Long, Phượng Sồ, được một trong hai có thể an định thiên hạ“, từ đây mới có câu chuyện Lưu Bị “3 lần đến lều cỏ” cầu Khổng Minh Gia Cát hạ sơn nổi tiếng.
6. Lý Ý
Theo “Thần Tiên truyện” của Cát Hồng, Lý Ý là người quận Thục (nay là Thành Đô, Tứ Xuyên), sống vào những năm thời Hán Văn Đế, đến thời Tam quốc vẫn còn sống. Cũng có người nói rằng, ông là cháu đời thời 17 của Lão Tử – Lý Nhĩ, đạo hạnh bí hiểm.
Trước cuộc chiến ở Di Lăng, Lưu Bị muốn đích thân dẫn đại binh đánh Ngô để báo thù cho người em kết nghĩa của mình là Trương Phi và Quan Vũ, nên đã nhờ Lý Ý đoán xem lành dữ thế nào. Lý Ý bèn lấy giấy vẽ hơn 40 bức tranh binh mã khí giới. Vẽ xong, ông lại xé vụn từng tờ một. Sau đó ông lại vẽ một người to lớn nằm ngửa trên mặt đất, một người bên cạnh đào đất chôn, bên trên viết một chữ “Bạch” lớn, sau đó chắp tay mà đi. Lưu Bị bực mình nói với quần thần rằng: “Đây là lão điên khùng! Không đáng tin chút nào!”. Sau đó, vì Lưu Bị không tin, đã lấy lửa đốt bỏ bức vẽ, rồi cất 70 vạn đại quân tiến lên.
Ông là cao nhân chỉ điểm cho Lưu Bị trận Di Lăng, nhưng cũng như Gia Cát Lượng, Bị không nghe và chuốc lấy tai hoạ. (Ảnh minh hoạ: gcsfw)
Lý Ý vẽ hơn 40 bức binh mã khí giới ám chỉ 40 doanh trại ở ven sông của Lưu Bị. Ông xé nát bức vẽ ám chỉ doanh trại bị phá. Một người to lớn nằm ngửa trên mặt đất và một người đào đất chôn ám chỉ là Lưu Bị vì bại trận mà sẽ phải chết. Phía trên viết một chữ “Bạch” lớn chỉ Lưu Bị gửi gắm con nhỏ cho Gia Cát Lượng ở thành Bạch Đế. Khi Lưu Bị dùng lửa đốt bức vẽ đã chỉ rõ, 40 doanh trại sau này bị hoả công Đông Ngô của Lục Tốn thiêu rụi, chính là do quyết định sai lầm của ông gây ra. Những điều này về sau từng cái đều ứng nghiệm chuẩn xác.
7. Tả Từ
Ông là phương sĩ (người cầu đạo thời xưa) cuối thời Đông Hán, người Lư Giang. Thuở nhỏ sống ở núi Thiên Trụ luyện đan. Tương truyền rằng, ông đã từng uống rượu cùng Tào Tháo, Tào Tháo muốn có được cá lư sống ở sông Tùng Giang. Tả Từ dùng một chậu đồng đựng nước là câu được ngay, Tào Tháo mừng rỡ.
Ông là một nhân vật vô cùng nổi tiếng, được ghi chép lại trong rất nhiều thư tịch cổ. (Ảnh: 5011)
Về sau trong yến tiệc, ông dùng thần thông lấy hết rượu thịt mà Tào Tháo dùng để đãi khách nên đã bị Tào Tháo tức điện, sai người đuổi giết. Về sau thấy có bầy dê, ông liền ẩn mình vào trong bầy dê này nên binh lính đã không bắt được ông, sau đó ẩn thân không thấy tung tích nữa. Điều này được ghi chép trong rất nhiều tác phẩm như: “Hậu hán thư. Tả Từ truyện”, “Sưu thần ký”, “Phương dư thắng lãm”, “Thiên hạ danh thắng chí, “Giang nam thông chí” hay “Lư giang huyền chí” cũng đều có ghi lại.
Theo Đại Kỷ Nguyên Tiếng Trung
Mai Trà biên dịch
Ánh Trăng hiệu đính
Xem thêm: