Trận Đại Hồng thủy được mô tả trong các truyền thuyết của nhiều nền văn hóa khác nhau. Từ Hi Lạp cho đến Ấn Độ, Cu Ba, Brazil, các nước Quốc Đảo – gần như trong tất cả các nền văn minh cổ đại ở dạng này hay dạng khác đều có những truyền thuyết về Đại Họa, nói về Noah, Hoa, Noa, Nu Ya,… Một sự kiện lịch sử, qua nhiều đời kể đi kể lại, sẽ biến thành truyền thuyết. Ngày nay, người ta nghe những câu chuyện về Đại Hồng Thủy, Con tàu Noah như nghe một câu chuyện cổ tích thú vị mà không nghĩ rằng nó thật sự tồn tại.
Cho đến khi con tàu Noah được tìm thấy tại núi Ararat – Thổ Nhĩ Kỳ, cả thế giới ngỡ ngàng…
Những bằng chứng chứng tỏ rằng Ararat là nơi dừng chân cuối cùng của con tàu Noah có rất nhiều. Beros, nhà sử học người Chaldea, khoảng năm 280 Tr. CN đã nói về “con tàu đỗ tại Armenia”. Ông cũng kể rằng cư dân ở vùng này đã dùng những mảnh của con tàu lớn làm bùa hộ mệnh. Jozeph Flavy, nhà sử học người Do Thái thế kỷ I khẳng định trong một tác phẩm của mình rằng “một vài mảnh của con tàu vẫn còn có thể tìm thấy hiện nay tại Armenia”.
Cũng trong thế kỷ thứ I, nhà sử học Nicolai Damaskin đã nhắc đến núi Ararat, nhưng dưới cái tên Baris: “Ở Armenia có một ngọn núi lớn tên là Baris, trên đỉnh núi của nó có một con tàu bị mắc cạn từ thời Đại Hồng thủy”.
Trước khi tới thăm ngọn núi này vào năm 1316, giáo sĩ Odorique người Fransiscan đã viết: “Những người dân địa phương kể cho chúng tôi rằng, không có ai có thể lên được ngọn núi ấy, bởi Đức Tối Cao không muốn điều đó”. Bốn mươi năm sau, ngày John Mandeville, khi quan sát ngọn núi này và thử tính độ cao của nó, đã viết: “Trên đỉnh núi đến tận bây giờ vẫn còn con tàu Noah, và trong những ngày thời tiết tốt, người ta có thể nhìn thấy nó từ xa. Nó phải cao ít nhất là 7 dặm”.
Vào đầu thế kỷ XVII, Adam Oelschlager, nhà thám hiểm, nhà văn người Đức đã nhắc đến núi Ararat trong tác phẩm “Những chuyến thám hiểm và du ngoại của các sứ thần” của mình: “Những người Armenia và dân vùng núi tin rằng, trên ngọn núi này đến giờ vẫn còn những mảnh của con tàu, do thời gian đã bị cứng lại như đá”.
Năm 1840 dưới danh nghĩa nghiên cứu hậu quả trận động đất đã phá hủy toàn bộ làng Ahor và cả nhà thờ, chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ đã tiến hành một chuyến thám hiểm. Những công nhân người Kurd được thuê để dọn đá dăm và rác đã phát hiện thấy những mảnh gỗ lạ hình như là của một chiếc tàu lớn. Không lẽ đó chính là những mảnh vụn của con tàu Noah?
Những chuyến “thám hiểm chính thức” đầu tiên lên đỉnh Ararat mà chúng ta biến đến, được tiến hành vào tháng 10 ăm 1929. Đứng đầu là Friedrich Parrot, một người Đức, giáo sư triết học thuộc trường Tổng hợp Derp, hiện nay là Tartu, Estonia). Trong những ngày trước cuộc leo núi, Friedrich Parrot đã được cha xứ của nhà thờ nhỏ trên sườn núi cho xem bức tranh thánh vẽ trên mảnh gỗ làm từ những mẩu của con tàu Noah.
Vào năm 1916, trong thời gian băng tan. Hai phi công Nga bay dọc theo biên giới Armenia từ phía Đông Bắc và nhìn thấy trên sườn núi Ararat một cái hồ gần như đóng băng hoàn toàn. Khi bay lại gần, hai phi công này thấy một vật giống với thân của một con tàu lớn gần chìm hẳn dưới hồ. Con tàu bị mắc cứng trong lớp băng, trên bong tàu có thể thấy hai cột buồn ngắn và chiếc cầu con nằm ngang. Thông báo này được chuyển tới Sant – Peterburg và nhà vua đã ra lệnh cử hai đội kỹ sư tới Ararat để nghiên cứu. Khoảng hai tháng sau Đoàn thám hiểm tới nơi và bắt tay vào nhiệm vụ. Đó đúng là một con tàu có kích thước khổng lồ với hàng trăm khoang hành khách và rất nhiều gian phòng có trần cao hơn bình thường. Họ đã chụp ảnh, đo đạc con tàu và lập báo cáo gửi Nga hoàng. Nhưng giao thông giữa Ararat và Sant – Peterburg bị gián đoạn nên Nicolai Đệ Nhị đã không nhận được bản báo cáo.
Và sự tồn tại của con tàu một lần nữa lại bị gác lại bởi những biến động của lịch sử cho đến khi sự tồn tại của con tàu Noah dần dần được khẳng định nhờ các công nghệ hiện đại và sự hiện diện của CIA.
Năm 1943, trong thế chiến II, giữa Mỹ và Liên Xô có tồn tại một cầu hàng không để cung cấp vũ khí, đạn dược giữa căn cứ Mỹ ở Tunisse và căn cứ Liên Xô ở Erevan. Trong thời gian diễn ra hoạt động nói trên, hai phi công Mỹ khi bay qua Ararat đã phát hiện thấy ở sườn núi vó một vật giống như con tàu lớn. Tò mò bởi cảnh tượng lạ lùng, trong chuyến đi sau đó, họ bay gần hơn và có thợ ảnh của căn cứ đi cùng. Một vài trong số những bức ảnh này đã được đằng trên tờ tạp chí Châu Âu “Fields và Stars”.
Những năm 1950 – 1970 các cơ quan tình báo của Mỹ hoạt động rất tích cực tại vùng Ararat. Máy bay do thám loại Y – 2 và CP – 71 đã tiến hành hàng trăm chuyến bay để không bỏ sót bất cứ hoạt động khả nghi nào của quân đội Xô Viết, và núi Ararat là một trong những điểm “nóng” nằm trong tầm ngắm của cơ quan này.
Mùa Xuân năm 1960, các phi công của phi đội 428 thuộc lực lượng tác chiến của Không lực Hoa Kỳ có căn cứ tại Adan (Thổ Nhĩ kỳ) cũng nhìn thấy và chụp một vật giống với hình một chiếc tàu lớn trên sườn núi ở Ararat. Những bức này này được lưu vào hồ sơ lưu trữ của CIA đã thu thập trong thời “chiến tranh lạnh” và ngày nay bắt đầu được công bố.
Đã có hàng nghìn bức ảnh về con tàu trên ngọn núi huyền thoại này được chụp từ các máy bay Mỹ. Năm 1973 Porcher Taylor III, giáo sư trường Tổng hợp Richmond lần đầu tiên công bố rằng vật thể trong các bức ảnh chính là con tàu Noah huyền thoại.
Công bố đó đã gây ra sự chấn động toàn thế giới bởi trước đó hầu hết các nhà khoa học đều phủ nhận câu chuyện trong Kinh Thánh về trận Đại Hồng thủy và con tàu Noah.
Tiếp theo, những công cuộc khai quật và nghiên cứu được tiến hành một cách nghiêm túc cho thấy đích thực có tồn tại một con tàu khổng lồ, chở theo nhiều người và gia súc yên nghỉ trên ngọn núi Ararat.
Phần đầu tiên của cuộc nghiên cứu là kiểm tra vật thể và đo lường kích thước của nó. Vật thể trông giống phần thân của một con tàu lớn. Một đầu nhọn là mũi tàu, còn đầu kia bo lại là đuôi tàu. Khoảng cách từ mũi đến đuôi là gần 160m:
Trên mạn phải của con tàu, gần đuôi (điểm B) có 4 thanh lồi ra khỏi phần đất bùn, cách đều nhau, được xác định là các sườn khung của thân tàu. Đối diện với chúng, ở bên mạn trái, có một thanh sườn cũng lồi ra khỏi đất bùn (điểm A).
Gỗ của con tàu đã bị hóa thạch. Các chất hữu cơ đều đã bị thay thế bằng khoáng chất, chỉ còn lại hình thù và dấu vết của các thanh sườn tàu. Gỗ đều đã hóa thạch và xói mòn từ rất lâu trước đó. Nhưng chúng ta có thể dễ dàng quan sát thấy hình dáng uốn cong của nó. Xung quanh đó là rất nhiều sườn khung khác, phần lớn bị chôn vùi trong đất, kiểm tra kỹ đều có thể thấy được:
Con tàu này nằm giữa một dòng bùn khô. Căn cứ theo vị trí của con tàu và dòng bùn, có thể thấy rõ vật thể này đã bị cuốn trôi cùng dòng chảy của bùn, ra cách xa khỏi vị trí ban đầu của nó khoảng 1,6 km. Các nhà địa chất học tin rằng ban đầu con tàu này nằm ở vị trí cao hơn chỗ hiện tại khoảng 300m, và bị bao bọc trong một lớp bùn cứng hơn. Họ cho rằng vào năm 1948, một trận động đất đã phá vỡ lớp vỏ bùn cứng ấy, khiến con tàu lộ ra. Điều này cũng được dân làng xung quanh đó xác nhận.
Mắt người chỉ nhìn được vật thể nhờ ánh sáng phản chiếu từ nó. Để nhận ra những vật thể nằm bên dưới mặt đất, các nhà khoa học sử dụng sóng siêu âm xuyên qua mặt đất. Kỹ thuật này thường được dùng để xác định vị trí dầu mỏ và các khoáng chất khác. Thiết bị để làm việc này được gọi là Radar xuyên đất (máy GPR):
Kết quả radar scan: Radar ngầm đã giúp xác định rõ các cấu trúc bên dưới mặt đất. Chúng hoàn toàn đối xứng và có bố cục rất hợp lý. Đây là những kích thước chính xác như được mô tả của con tàu trong Kinh Thánh.
Radar cũng cho thấy nhiều cấu trúc cây gỗ bên trong thân tàu. Kết quả phân tích cho thấy chúng là những thanh gỗ sống tàu, sống phụ, mép tàu, các buồng ở, các buồng động vật, hệ thống thang (con tàu có 3 tầng), cánh cửa phía mũi mạn phải, 2 cái thùng lớn ở gần mũi tàu kích thước 14 x 24 inch, và một giếng trời nhỏ ở khu vực chính giữa con tàu để thông khí cho toàn bộ 3 tầng của con tàu tiền sử vĩ đại này.
“Dữ liệu này không tương ứng với kiến tạo địa chất tự nhiên. Chúng là những cấu trúc nhân tạo…” Ron Wyatt, một nhà nghiên cứu cho biết.
Có lẽ khám phá quan trọng và đáng kinh ngạc nhất thu được từ hiện trường là một miếng gỗ đã hóa thạch. Khi mới được tìm thấy, người ta tưởng rằng đó là một miếng gỗ đơn thuần của sàn tàu. Nhưng khi kiểm tra kỹ lưỡng hơn, hóa ra miếng gỗ này bao gồm 3 tấm ván khác nhau, được cán mỏng sau đó gắn chặt với nhau bằng một loại keo dán hữu cơ. Nó rất giống với cách chế tạo gỗ dán của chúng ta ngày nay! Gỗ dán có sức bền lớn hơn nhiều so với gỗ thường. Điều này chứng tỏ con người cổ đại đã sở hữu trình độ công nghệ rất cao.
Ngoài ra, tại hiện trường các nhà khoa học cũng thu thập được rất nhiều mẫu vật hóa thạch của đinh tán, xương và phân động vật, mỏ neo,…
Dựa trên những dữ kiện lịch sử và nghiên cứu trên, ta có thể chắc chắn rằng xác thực có một con tàu khổng lồ đã hóa thạch ở vùng núi Ararat, Thổ Nhĩ Kỳ, và gần như chắc chắn nó chính là con tàu huyền thoại Noah.
Vào ngày 20/6/1987, Thống đốc tỉnh Agri của Thổ Nhĩ Kỳ tuyên bố với thế giới rằng: Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ, các nhà nghiên cứu thuộc trường Đại học Ataturk, cơ quan khảo cổ Thổ Nhĩ Kỳ… đã công nhận vật thể hình chiếc tàu trên ngọn núi Ararat tại độ cao 2.000m so với mực nước biển ấy là con tàu của Noah. Khu vực này trở thành công viên quốc gia, báu vật quốc gia của họ. Đây là một trong những phát hiện lịch sử học và khảo cổ học vĩ đại nhất, cho thấy Đại Hồng Thủy và con tàu Noah là sự thật.
Những khám phá này cũng vén lên bức màn lịch sử: trước thời kỳ văn minh này đã tồn tại những thời kỳ văn minh trước với trình độ khoa học kỹ thuật rất cao và các trận Đại Hồng thủy đã khiến những nền văn minh đó bị hủy diệt, chỉ có một số ít nhân loại sống sót và tiến vào một kỷ nguyên mới, chính là nền văn minh nhân loại chúng ta hiện nay.
Nam Minh