Khoan dung được ví như một sợi dây vô hình nối trái tim với trái tim, làm cho cuộc sống giàu tình thương, xã hội hoà bình, thân ái. Thế cho nên, Phật mới dạy rằng: “Tài sản quý giá nhất của đời người chính là lòng khoan dung”.
Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác). Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: “Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?” (sách Luận ngữ).
Học trò của Khổng Tử là Tử Cống từng hỏi ông rằng: “Thưa thầy! Có hay không có một chữ mà có thể làm nguyên tắc khiến con người cả đời làm theo?”. Khổng Tử nói: “Chính là chữ “Thứ”. Chữ “Thứ” này chính là mang ý nghĩa khoan dung, độ lượng.
Một vị học trò khác của Khổng Tử là Nhan Hồi cũng từng nói: “Nhân thiện ngã, ngã diệc thiện chi, nhân bất thiện ngã, ngã diệc thiện chi.” (Tạm dịch: Người đối tốt với ta, ta cũng đối tốt với người. Người không đối tốt với ta, ta vẫn đối tốt với người).
Phương pháp luận của Lão Tử cụ thể hơn: Với kẻ lành, lấy lành mà ở, với kẻ chẳng lành, vẫn lấy lành mà ở. Còn Đức Thích Ca dạy: “Oán trả oán, oán ấy chồng chất, lấy ân trả oán, oán ấy tiêu tan”.
“Chiến Quốc sách” kể rằng, Tín Lăng Quân đánh bại quân Tần, cứu được Hàm Đan, bảo toàn được nước Triệu, cho nên Triệu Vương tự mình thân chinh đến vùng ngoại ô nghênh đón ông. Đường Tuy bảo Tín Lăng Quân rằng: “Tôi từng nghe người ta nói: Có chuyện không thể biết, có chuyện không thể không biết, có chuyện không thể quên, có chuyện lại không thể không quên”.
Tín Lăng Quân hỏi: “Như vậy ý tứ là thế nào?”.
Đường Tuy trả lời: “Người ta căm hận ta, việc như thế này không thể không biết. Nếu ta phụ lòng người khác, như thế ta cần phải tìm cách bồi thường cho họ. Căm giận người ta, tâm thái như thế thì không nên có, cần dùng lòng khoan thứ mà hóa giải. Nhưng trong lúc hóa giải, không nên đồn đại khắp nơi mà mang đến cho người khác sự quấy nhiễu và khẩn trương. Người ta có ân đức với mình, việc như thế không thể quên, cần cảm ơn báo đáp. Mình có ân đức với người ta, việc như thế không thể không quên, nếu không sẽ làm chính mình và người ta phải chịu áp lực lớn. Bây giờ ông đã đánh bại quân Tần, cứu được Hàm Đan, bảo toàn được nước Triệu, đó là ân đức rất lớn đối với họ! Triệu Vương tự mình đến ngoại ô nghênh đón ông, gặp Triệu Vương, chỉ mong ông quên cái ân đức của mình đi!”.
Tín Lăng Quân nói: “Tôi nhất định cẩn thận nghe theo lời Ngài dạy bảo!”.
Người xưa chú trọng vào tu thân dưỡng tính, lúc nào cũng chú trọng kiểm tra lại bản thân mình, đồng thời có thể dùng lòng khoan dung mà lượng thứ cho khuyết điểm của người khác. Điều đó không chỉ khiến cho đức hạnh của bản thân mình có thể nâng cao lên mà còn có thể cảm hóa, thiện hóa người khác.
Với kẻ thành tín, lấy thành tín mà đãi, với kẻ không thành tín vẫn lấy thành tín mà đãi. Nghĩ kỹ thêm mới thấy, hai chữ khoan dung thốt ra nhẹ nhàng biết bao nhiêu mà thực hành lại nặng nề bấy nhiêu, bởi nếu lòng dạ hẹp hòi thì không chứa nổi hai chữ ấy.
Khoan dung, với giá trị sâu sắc của nó, được ví như một sợi dây vô hình nối trái tim với trái tim, làm cho cuộc sống giàu tình thương, xã hội hoà bình, thân ái. Dù vậy, chúng ta không nên cho rằng khoan dung là nhân nhượng, là chùn bước, dễ dàng đầu hàng cái xấu, cái ác. Khoan dung chính là cảnh giới của người quân tử. Thế cho nên, Đức Phật mới dạy rằng: “Tài sản quý giá nhất của đời người chính là lòng khoan dung”.
Khi Mahatma Gandhi quyết tâm đòi quyền lợi cho dân Ấn, ngài vẫn có lòng khoan dung trước những hành vi quá quắt của thực dân Anh. Ngài nói: “Vì điều xấu ác chỉ có thể được duy trì bởi bạo lực, điều quan trọng là tất cả mọi hoạt động bạo lực đều phải từ bỏ. Nếu chúng ta đáp trả bạo lực bằng bạo lực thì những nhà lãnh đạo tương lai của chúng ta chẳng qua cũng được đào tạo trong môi trường bạo lực. Nếu cứ ăn miếng trả miếng thì đất nước mà chúng ta giành lại được chỉ là một xứ sở mù lòa”. Có thể nói Gandhi đã thực hành đúng lời Phật dạy, “Oán trả oán, oán ấy chồng chất, lấy ân trả oán, oán ấy tiêu tan”.
Những lời giảng của Đức Phật đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự an lạc trong tâm mỗi người cũng như trong cả cuộc sống. Theo Phật dạy, tha thứ là một bước hết sức quan trọng nhằm đạt được trạng thái an lạc này. Đức Phật cũng dạy việc cố chấp, không tha thứ sẽ làm bản thân chúng ta đau khổ. Ai không thể buông bỏ những điều sai trái mà người khác gây ra cho mình thì cũng không thể buông bỏ được sự hận thù, đau khổ khỏi bản thân.
Hận thù kéo theo đau khổ và càng nhiều đau khổ thì ta lại càng dày vò quá khứ, càng nung nấu hận thù. Tha thứ cho người khác cũng như tha thứ cho bản thân mình là một bước quan trọng trong việc đạt tới sự an lạc và giác ngộ. Buông bỏ hận thù và tha thứ cho những người đã làm tổn hại mình sẽ giúp chúng ta tinh tiến trong việc tu tập. Do vậy, tha thứ còn được coi là một phương pháp tu tập, cũng giống như thiền định.
Có đau khổ thì mới có được an lạc. Để đạt được sự an lạc, người ta cần phát triển trí tuệ và từ bi. Cần phải có những hoàn cảnh dẫn đến sự đau khổ thì chúng ta mới có cơ hội tăng trưởng trí tuệ và từ bi. Do vậy, những hoàn cảnh bất lợi, gây tổn thương cũng đồng thời là nguồn chất liệu để chúng ta tu tập. Vậy thì càng không nên thù hằn những người đã gây ra hoàn cảnh bất lợi đó.
Cũng như rác rưởi và hoa màu, mới nhìn thì không thấy có sự liên quan gì với nhau. Ai cũng thích hoa mà ghét rác. Nhưng một người làm vườn thì lại không ghét, không xua đuổi rác bởi ông ta có thể dùng rác để ủ thành phân hữu cơ bón cho cây trồng, cây sẽ nở hoa đẹp. Thực hành tha thứ và khoan dung chính là thực hành tăng trưởng trí tuệ và lòng từ bi.
Chân Tâm