Vương Phương từng là sở trưởng Công an Chiết Giang, được Mao Trạch Đông gọi là “viên đại cảnh vệ” và được Mao tin tưởng. Trong “Cách mạng Văn hóa”, ông bị chỉnh đủ 8 năm, lý do thực sự là gì? 

Chào mừng các bạn đến với Trăm năm chân tướng!

Vương Phương là một cái tên rất khí thế, nhưng Vương Phương mà chúng ta sắp nói đến trong tập này là một đại hán đến từ Sơn Đông. Ông được biết đến với cái tên “viên đại cảnh vệ” của Mao Trạch Đông. Nhưng trong cuộc “Cách mạng Văn hóa” kéo dài mười năm, Vương Phương đã gặp xui xẻo lớn: ông bị chỉnh từ năm 1966, bị bắt năm 1967 và mãi đến tháng 10 năm 1974 mới được thả.

“Cách mạng văn hóa” náo loạn 10 năm, thì “viên đại cảnh vệ” này cũng bị phạt đủ 8 năm tù, tại sao lại như vậy? Hôm nay, chúng ta sẽ nói về lịch sử của nhân vật này dựa trên “Hồi ức của Vương Phương” và các tài liệu khác.

38 lần chịu trách nhiệm bảo an cho Mao Trạch Đông

Sau khi Mao Trạch Đông lên nắm quyền, địa phương mà ông ta lui tới nhiều nhất khi rời Bắc Kinh là Hàng Châu, thủ phủ tỉnh Chiết Giang. Kể từ năm 1953, Mao đã đến Hàng Châu hơn 40 lần, và ở lại tổng cộng hơn 800 ngày.

Về phần Vương Phương, từ tháng 11 năm 1952 đến tháng 8 năm 1965, ông giữ chức sở trưởng Công an tỉnh Chiết Giang. Trong thời kỳ này, hơn 40 lần Mao đến Hàng Châu, thì có đến 38 lần do ông trực tiếp phụ trách bảo vệ an toàn. Bằng cách này, ông thường có cơ hội ở bên cạnh Mao, và đôi khi ăn cơm uống rượu, leo núi du sông và trò chuyện với Mao.

Để đảm bảo an toàn và an ninh cho Mao Trạch Đông, Vương Phương không dám một phút lơ ​​là sơ suất. Vợ của Vương Phương, Lưu Hinh, cho biết: “Thật không quá khi miêu tả đó là sự tỉ mỉ đến quên ăn quên ngủ”.

Chính vì vậy, thời kỳ Mao Trạch Đông ở Hàng Châu, công tác cảnh vệ không mắc bất kỳ sai sót nào.

“Kẻ lót đường tư bản” lớn nhất Ôn Châu

Vào ngày 16 tháng 5 năm 1966, “Cách mạng Văn hóa” nổ ra, La Thụy Khanh, người đã giữ chức bộ trưởng Bộ Công an trong 10 năm, và Bành Chân, tổ trưởng tiểu Tổ Chính trị Pháp luật Trung ương, bị đả thành “Tập đoàn phản đảng Bành La Lục Dương”. Ngay sau đó, chủ tịch quốc gia Lưu Thiếu Kỳ bị lật đổ với tư cách là “phái đương quyền tối đại trong đảng đi theo con đường tư bản chủ nghĩa”. Sau đó, một lượng lớn các quan chức trong hệ thống chính trị và pháp luật quốc gia đã bị đả đảo.

Đương thời, Vương Phương giữ chức phó tỉnh trưởng tỉnh Chiết Giang, đồng thời là quyền bí thư Tỉnh ủy Ôn Châu của ĐCSTQ. Sau khi “Cách mạng Văn hóa” nổ ra ở Ôn Châu, Vương Phương bị đả thành “kẻ lót đường tư bản lớn nhất” ở Ôn Châu, bị phê đấu tơi bời trong các hội nghị lớn nhỏ.

Ngày 18 tháng 11 năm 1966, Vương Phương bị quân tạo phản bao vây tại Văn phòng Công an Ôn Châu trong nhiều ngày. Sau khi thư ký của ông báo cáo với Tỉnh ủy Chiết Giang và Văn phòng Tổng hợp Trung ương, sự việc đã thu hút sự chú ý.

Vào ngày 25 tháng 11, Trung ương ĐCSTQ và Quốc vụ viện đã ban hành một văn bản do Mao Trạch Đông ký, yêu cầu tỉnh Chiết Giang cử người đến Ôn Châu đọc chỉ thị của Trung ương, phụ trách xử lý các vấn đề ở đó.

Ngày hôm sau, Thẩm Sách, ủy viên thường vụ Tỉnh ủy Chiết Giang kiêm bộ trưởng Tổ chức, vội vã đến Ôn Châu, tại cổng Cục Công an đọc văn kiện Trung ương cho thủ lĩnh phái tạo phản. Tuy nhiên, các thủ lĩnh của phái tạo phản nghi ngờ tính chân thực của tài liệu, nên họ đã giam giữ Thẩm Sách, và cử người đến Bắc Kinh để xác minh văn kiện là thật hay giả.

Ngày 29/11, Văn phòng Trung ương có văn bản đặc biệt nêu rõ văn kiện của Trung ương là thật, phải kiên quyết thực hiện. Sau đó, phái tạo phản mới dần dần giải tán.

Nhưng Vương Phương có thể không ngờ rằng đây chỉ là “khúc dạo đầu” cho nguy vận của mình.

Vào tháng 1 năm 1967, cuộc “Cách mạng Văn hóa” đã bước vào giai đoạn đoạt quyền toàn quốc. Vào ngày 16 tháng 1, phái tạo phản ở Ôn Châu đã tổ chức một cuộc biểu tình của hàng chục nghìn người, hô vang khẩu hiệu “đoạt quyền”, tiến vào các cơ quan tỉnh ủy và thành ủy, đại phê đấu các cán bộ lãnh đạo; cơ quan tỉnh ủy, thành ủy bị tê liệt. 

Từ tháng 3, Vương Phương bị quân tạo phản “sắp xếp” đến sống tại trường trung học cơ sở số 1 Ôn Châu, bị Hồng vệ binh canh giữ và mất tự do cá nhân.

Ngày 1 tháng 5 năm 1967, ông bị phiến quân áp giải đến Hàng Châu, liên tiếp bị giam giữ tại Trường đảng Tỉnh ủy Chiết Giang của ĐCSTQ, Nhà điều dưỡng công nhân Chiết Giang, Tòa án tỉnh Chiết Giang, Khách sạn Hoa kiều, sân của Sở Công an tỉnh, Trại giam Mễ Thị Hạng, Cục Cải cách Lao động, để tiếp thụ phê đấu. 

Vào ngày 15 tháng 8, Vương Phương bị áp giải trở lại Ôn Châu trong một tuần nữa, ông bị đại hội phê đấu tại Quảng trường Nhân dân, phải đứng trên một chiếc ghế đẩu trên sân khấu. “Tội danh” của ông còn được thăng cấp thành “lên kế hoạch phản loạn vũ trang phản cách mạng”.

Sau đó, ông bị áp giải đến Hàng Châu, tiếp tục bị giam giữ và phê đấu.

Bị chuyển công tác đột ngột, sự việc leo thang?

Ngày 28 tháng 2 năm 1968, Vương Phương bị giam tại một cứ điểm bí mật của Văn phòng Công an tỉnh Chiết Giang. Đột nhiên, một người nào đó từ tổ quân quản của Sở Công an đến thông báo rằng ông phải thu dọn đồ đạc, lập tức di chuyển. Vương Phương tưởng rằng mình sẽ chuyển đến một nơi khác ở Hàng Châu, không ngờ sau khi bị tống lên xe, chiếc xe đã thẳng tiến đến sân bay Kiển Kiều. Ở đó, ông bị tống lên một chuyên cơ Không quân.

Sau khi lên máy bay, Vương Phương cảm thấy bầu không khí không bình thường. Hàng ghế trước, sau, trái, phải đều được ngăn cách bằng vải trắng, ngoại trừ một số quân nhân thần thái có vẻ nghiêm túc, nhưng những hành khách khác không thể gặp nhau hay nói chuyện, ông không biết những người khác trong chiếc áo trắng vải rốt cuộc là ai.

Điều này cố tình tạo ra bầu không khí ngột ngạt và mơ hồ, khiến người ta cảm thấy khủng bố. Rốt cuộc là chuyện gì?

Nguyên lai, tại một cuộc họp của tiểu tổ Cách mạng Văn hóa Trung ương vào tháng 2 năm 1968, Giang Thanh đột nhiên đề xuất, ai đó ở Công an, Kiểm sát, Pháp viện Thượng Hải đã lấy được “tài liệu đen” của bà ta. Thông qua Ngô Pháp Hiến, tư lệnh Không quân, bà ta muốn đưa cục trưởng Cục Công an Thượng Hải Hoàng Xích Ba và hơn 20 người đến Bắc Kinh và tống họ vào tù. Vương Phương cũng bị liên lụy.

Mãi cho đến khi Vương Phương ra tù 6 năm sau, ông mới biết rằng có tổng cộng 17 người bị tống lên trên chiếc chuyên cơ đó, tất cả đều là quan chức của Cục Công an Thượng Hải và Sở Công an tỉnh Chiết Giang, bao gồm cả Hoàng Xích Ba.

Khi đến Bắc Kinh, tất cả họ đều bị giam giữ, bị Tổ chuyên án Trung ương thẩm vấn.

Thu thập “tài liệu đen” của Giang Thanh?

Vương Phương cho biết trong hồi ký của mình, trong thời gian thẩm vấn ở Bắc Kinh, tổ chuyên án trung ương tập trung lực lượng thẩm vấn một câu hỏi, đó là ông rốt cuộc đã thu thập được bao nhiêu “tài liệu đen” về Giang Thanh?

Những người tham gia tổ chuyên án đều là bộ đội Không quân, tư tưởng rất cánh tả, giọng điệu cao ngạo, nhiều lần tuyên bố sẽ vĩnh viễn trung thành với Bộ tư lệnh, cảm tử bảo vệ Giang Thanh, ai phản đối Giang Thanh sẽ kiên quyết đả đảo người đó. Họ cao giọng nói: “Vương Phương, anh đã thu thập những tài liệu đen về Giang Thanh, bằng chứng vững chắc như núi không thể chối cãi… anh phải khai báo thành thật”.

Vương Phương không tranh biện với họ, bởi vì ông biết rằng điều đó sẽ chỉ dẫn đến việc bị đánh đập nặng nề hơn, biện pháp tốt nhất là bảo trì im lặng. Tổ chuyên án rất bất bình, đe dọa nếu không “triệt để khai nhận tội hành của mình” thì chỉ có “con đường chết”.

Trong thời gian bị giam giữ, Vương Phương được ăn hai bữa một ngày theo chế độ “đãi ngộ cấp thứ trưởng”. Một suất ăn có hai cái bánh bao, mỗi cái chỉ to bằng quả trứng. Ông kể: “Mỗi bữa tôi bẻ đôi chiếc bánh bao hấp, một nửa chia thành hai miếng, một bữa là tám miếng, một ngày là mười sáu miếng. Buổi sáng có chút canh, thật khó mà nhìn thấy chút cơm gạo”. “Thực đơn thế này, đói khát cũng không đến nỗi như vậy, mỗi ngày đói đến muốn chết”.

Sau khi bị giam giữ một thời gian, sức khỏe của Vương Phương trở nên rất kém. Toàn thân sưng tấy, lại mắc chứng mất ngủ kéo dài, thậm chí không còn hơi sức đi hóng gió ở hành lang, gần như cả ngày chỉ nằm liệt trên giường.

Vào ngày 13 tháng 9 năm 1971, sau khi Lâm Bưu, nhân vật số 2 trong ĐCSTQ, chết trong một vụ tai nạn máy bay ở Undur Khan, Mông Cổ, việc đối xử với một số cán bộ kỳ cựu bị cầm tù lâu năm đã được cải thiện.

Vào tháng 8 năm 1972, vợ của Vương Phương, Lưu Hinh, lần đầu tiên được phép đến thăm Bắc Kinh. Thấy chồng sức khỏe quá yếu, bà rất lo lắng. Một ngày tháng 3 năm 1974, không lâu sau khi Vương Phương được xuất viện khỏi “điều trị giám hộ” của Bệnh viện Đa khoa Quân khu Bắc Kinh, Lưu Hinh lại đến thăm chồng cùng hai con. Khi bà tìm đến nhà khách của Bộ Công an thì đã hơn 10 giờ tối.

Hôm đó ở Bắc Kinh rất lạnh, nhiệt độ bên ngoài ngôi nhà xuống tới âm 10 độ. Lưu Hinh xuất trình giấy chứng nhận công tác và thư giới thiệu tại phòng đăng ký ký túc xá, sau khi đọc xong giấy giới thiệu, người đăng ký lập tức trầm giọng xuống và nói: “Không, không có chỗ ở”. Lúc đầu Lưu Hinh nghĩ rằng phòng thực sự rất chật, chuẩn bị ngồi trước cửa sổ phòng đăng ký cả đêm, đến rạng sáng sẽ trực tiếp tìm lãnh đạo Bộ Công an xin gặp Vương Phương.

Bà vừa ngồi xuống, người đăng ký bước ra nói: “Vương Phương là đối tượng quan trọng mà Trung ương ra quyết định giam giữ thẩm tra, có vấn đề chính trị lớn, anh ta là tội phạm. Bộ Công an có quy định không được tiếp đãi người nhà tội phạm”, còn nói “ngay cả vào phòng cũng không được… không phục thì cô có thể đi tìm lãnh đạo công an hỏi, nói với tôi cũng vô dụng”. Sau đó, hai mẹ con bị ném ra khỏi cửa.

Giải trừ thẩm tra

Sau khi trở về Hàng Châu từ Bắc Kinh, Lưu Hinh đi tứ xứ cầu xin thả Vương Phương thông qua nhiều mối quan hệ khác nhau. Vào ngày 28 tháng 9 năm 1974, bà viết một bức thư cho Mao Trạch Đông và giao nó cho Lý Ngân Kiều, trưởng đội cận vệ của Mao. Lý Ngân Kiều đã xoay sở để trao bức thư cho Mao.

Mao Trạch Đông biết rất rõ Vương Phương không có vấn đề gì, nếu không thì không thể đi Hàng Châu hơn 40 lần, mà Vương Phương đã phụ trách canh gác an toàn cho ông ta 38 lần. Ngày 28 tháng 10 năm 1974, Mao Trạch Đông ra chỉ thị về Vương Phương, nói “Tôi thấy có vẻ như không có vấn đề gì, nên được giải phóng”. Ngày hôm sau, Vương Phương được trả tự do và trở về nhà.

Mao Trạch Đông nói Vương Phương không sao, nhưng tại sao Giang Thanh lại bỏ tù ông nhiều năm như vậy với lý do “thu thập tài liệu đen”? Xem ra vấn đề rất đơn giản, chính là Giang Thanh có bóng ma trong lòng.

“Chuyên án số 18”

Năm 1954 và 1959, Giang Thanh lần lượt nhận được ba lá thư nặc danh ở Hàng Châu và Thượng Hải. Nội dung về việc người trong cuộc vạch trần chuyện ngoại tình phong lưu dơ bẩn của bà ta khi còn là diễn viên ở Thượng Hải những năm 1930. Giang Thanh sau khi nhận được thư nặc danh đã phi thường bất an, lấy cớ người công kích mình chính là công kích Mao Chủ tịch, yêu cầu điều tra người viết thư nặc danh. Chuyên án này được gọi là “Chuyên án số 18”.

Khi đó, La Thụy Khanh, bộ trưởng Bộ Công an, đã ra lệnh cho Cục điều tra tội phạm của Bộ Công an điều tra cùng với Sở Công an tỉnh Chiết Giang và Cục Công an thành phố Thượng Hải. Vương Phương khi đó là sở trưởng Sở Công an tỉnh Chiết Giang, có tham dự. Sau khi vụ án khép lại, các tài liệu liên quan được lưu giữ trong tủ hồ sơ của Bộ Công an và Cục Công an Thượng Hải.

Sau khi “Cách mạng Văn hóa” nổ ra, vào ngày 8 tháng 1 năm 1967, phái tạo phản trộm được một số tài liệu của vụ án thư nặc danh từ két sắt trong văn phòng của Vương Giám, cục phó Cục Công an Thượng Hải, ngay lập tức báo cáo cho Trương Xuân Kiều, chủ nhiệm Ủy ban Cách mạng Thượng Hải; Trương Xuân Kiều lập tức báo cáo Giang Thanh; Giang Thanh lập tức cử người đến Thượng Hải để vận chuyển tất cả những tài liệu này đến Bắc Kinh.

Vào ngày 27 tháng 9 năm 1967, tại Cần Chính điện ở Trung Nam Hải, bộ trưởng Bộ Công an lúc bấy giờ là Tạ Phú Trị và những người khác đã đích thân tiêu hủy tất cả những tài liệu này.

Sau khi tiêu hủy, Giang Thanh vẫn không yên tâm, lo lắng rằng các quan chức công an tham gia điều tra chuyên án sẽ tiết lộ vụ bê bối của bà ta, điều này sẽ ảnh hưởng đến địa vị và tương lai chính trị của bà ta với tư cách là đệ nhất phu nhân của ĐCSTQ. Vì vậy, Giang Thanh lấy cớ có người đã thu thập “tài liệu đen” của mình, buộc tiểu tổ Cách mạng Văn hóa Trung ương ra quyết định bắt và nhốt tất cả các quan chức công an có liên quan đến chuyên án.

Vương Phương đã trung thành phục vụ Mao Trạch Đông và Giang Thanh, nhưng cái mà ông nhận được là hơn 8 năm bị chỉnh đốn, hơn 6 năm ngồi tù. Một bài học như vậy từ quá khứ là một lời cảnh báo nghiêm khắc cho những người vẫn đang bán mạng cho ĐCSTQ ngày nay.

Theo Epoch Times
Mộc Lan biên dịch