Binh đao loạn lạc ở thời nào cũng có, đó như là cơn ác mộng kinh hoàng, là nỗi sợ hãi của bất kì ai. Và dưới con mắt của một bậc thi sĩ tài hoa, từng vần thơ như tái hiện lại cảnh loạn lạc thời cổ xưa. Mỗi câu chữ như lời bày tỏ nỗi lòng chua xót và cũng là lời gửi gắm của một sĩ phu yêu nước thương dân.
Đỗ Phủ biểu tự Tử Mỹ hiệu Thiếu Lăng dã lão, Đỗ Lăng dã khách 野客) hay Đỗ Lăng bố y, là một nhà thơ Trung Quốc nổi bật thời kì nhà Đường. Cùng với Lý Bạch, ông được coi là một trong hai nhà thơ vĩ đại nhất của lịch sử văn học Trung Quốc. Ông tài năng tuyệt vời và đức độ cao thượng nên từng được các nhà phê bình Trung Quốc gọi là Thi Sử và Thi Thánh.
Ông sở hữu rất nhiều những tác phẩm thơ ca đặc sắc. Những tác phẩm ấy ảnh hưởng không nhỏ tới văn hóa Trung Quốc và Nhật Bản.
Nếu như độc giả phương Tây yêu thích và coi những tác phẩm của Virgil, Horace, Ovid, Shakespeare, Milton, Burns, Wordsworth, Béranger, Hugo là những báu vật nghệ thuật thì ở phương Đông những tác phẩm thi ca của Đỗ Phủ được sánh ngang bằng.
Một trong những tác phẩm được cho là nổi tiếng nhất của ông là bài thơ Mao ốc vị thu phong sở phá ca.
Bài thơ là bức tranh khốn khổ của cảnh loạn lạc binh đao
Trong suốt cuộc đời của mình, Đỗ Phủ một lòng ôm ấp một ước vọng là tham gia chính trường để dốc sức giúp dân giúp nước. Thế nhưng cuộc đời của ông giống như cả đất nước đều bị điêu đứng vì loạn đảng An Lộc Sơn năm 755.
Có một thời gian ngắn ông làm quan nhưng lại không được trọng dụng nên ông đã từ quan đưa ra đình về vùng Tây Nam, một thời gian sống ở Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên. Năm 760, được bạn bè và người thân giúp đỡ, Đỗ Phủ dựng được một ngôi nhà tranh bên cạnh khe Cán Hoa ở phía tây Thành Đô.
Những năm tháng còn lại ở đời của ông trong cảnh đau ốm bệnh tật. Nhưng có lẽ căn bệnh lớn nhất và cơn đau lớn nhất của ông không nằm ở thân xác này. Đó là nỗi đau của cảnh binh đao, loạn lạc.
Chữ “tranh” (mao) được nhắc lại 2, 3 lần, lối viết liệt kê đã tái hiện lại trận cuồng phong lần lượt bóc đi từng tấm tranh, nhà thơ ngơ ngác nhìn, bất lực. Cả 5 câu thơ đều được gieo vần bằng: “hào – mao – giao – sao – ao “, đó là những vần có âm vang diễn tả âm điệu thơ như tiếng khóc, tiếng thở than, về vần thơ, Khương Hữu Dụng thể hiện đúng dụng ý nghệ thuật của Đỗ Phủ trong nguyên tác: “gịà – ta – xa – sa”.
Tháng tám, trời cao, thu nổi gió
Cuốn tung ba lớp cỏ mái nhà
Qua sông rớt xuống đất xa
Cao thì vắt vẻo rừng già ngọn cây
Thấp tơi tả chìm đầy ao nước.
Câu thơ miêu tả là cảnh gió thổi cuộn tung cả lớp cỏ mái nhà tranh của Đỗ Phủ. Ngọn gió ấy như kẻ vô tình cuốn đi tất cả những gì mà ông có. Nhìn mái nhà bị bay đi mỗi nơi một mảnh, như sự oanh tạc tan tành của cơn gió dữ.
Nếu như Đỗ Phủ nhìn theo gió cuốn đi mái nhà tranh tạm bợ mà lòng buồn đau thê thảm, thì cũng chính là cảnh của những người dân nghèo đang tìm chốn yên thâm trong cảnh loạn lạc binh đao.
Họ đều chẳng còn gì trong cái tạm bợ khốn cùng. Đỗ Phủ thương xót cảnh mình bao nhiêu thì lại đau lòng trước thế sự bấy nhiêu. Nỗi đau ấy không phải của một thi sĩ bình thường nữa mà là nỗi buồn của một bậc sĩ phu yêu nước. Nước tan thì nhà cũng mất.
Trẻ xóm nam bọn nhóc khinh già
Nhẫn tâm cướp trước mặt ta
Ngang nhiên ôm cỏ tranh về xóm tre.
Rát cổ họng kêu nghe không được.
Chống gậy về bực tức than thân.
Tác giả mượn hình ảnh những đứa trẻ thích thú tranh dành nhau mái nhà cỏ bay tung trời mà nô đùa ám chỉ cho phường cướp bóc. Chẳng đoái hoài tới những sinh mạng yếu ớt già nùa hay những thân phận cơ cực nghèo hèn. Sự nhẫn tâm mà ông khéo léo mô tả đó ám chỉ tới phường loạn đảng An Lộc Sơn. Chứng kiến cảnh đó mà chính Đỗ Phủ cũng như biết bao văn nhân sĩ phu yêu nước khác đau lòng mà bực tức than thân.
Trách mình sao võ hèn văn kém chẳng mang được cho thiên hạ thái bình. Tác giả như kêu gào đau xót cho chính mình hay chính cuộc đời. Tiếng kêu thét như tiếng thất thanh của những người dân chạy loạn trong ánh đuốc bập bùng. Kêu tới rát cổ họng mà chẳng đặng được tiếng vó ngựa hung tàn.
Gió yên phút chốc mây vần
Ùn ùn phủ kín trời gần tối tăm.
Chăn vải cũ lâu năm lạnh sắt
Ngũ không yên con đạp rách bương
Mưa rơi dột ướt đầu giường
Mưa gai nhỏ giọt đêm trường chẳng ngưng
Từ loạn lạc, ngã lưng ít ngũ
Đêm mưa dầm ướt đẫm chưa tan
Loạn chưa dẹp thì mưa lại tới, cuồng phong rồi giông bão vùi lấp con người. Gia đình của Đỗ Phủ cũng như biết bao nhiêu số phận của dân thường như bị dồn lấp tới đường cùng, thiên tai rồi đạo tặc. Đây là thể hiện cho nỗi khổ cùng cực lại càng làm cho nỗi đau buồn của tác giả trước cảnh xã hội loạn lạc, đảo điên. Người dân lâm cảnh lầm than bởi lũ “quần đông” vừa láo hỗn vừa gian tham.
Đêm thu với mưa gió lạnh mà chứng kiến cảnh vợ con co ro với chiếc chăn cũ, mỏng, lâu năm bình thường đắp đã không đủ ấm, đêm nay lại bị con thơ đạp rách nát trong cảnh mưa rét, nhà thủng mái… là những chi tiết nghệ thuật nói lên cái nghèo khổ, cái cùng cực của một gia đình tàn tạ giữa thời loạn lạc. Lòng tác giả như đau thắt lại. Nỗi đau đời làm ông như bị dồn nén mà phẫn uất tâm can.
Nếu như ở khổ thơ đầu, ông sử dụng toàn vần bằng thì trong khổ thơ thứ ba này ông lại sử dụng toàn vần trắc: “sắc – hắc – thiết – liệt – tuyệt – triệt”. Đó cũng là một dụng ý nghệ thuật: vần thơ như diễn tả nỗi đau khổ đang thắt lại, dồn nén, uất ức đọng kết lại trong lòng nhà thơ.
Sau nỗi khổ cùng cực là niềm ước ao cho thiên hạ thái bình, dân tình bớt cảnh lâm than
Ông mang theo một giấc mơ đời tốt đẹp. Nay nhà tan, mái nhà rách nát, thì ông lại một lần ước ao:
Mong sao nhà lớn ngàn gian
Giúp cho hàn sĩ hân hoan ở đời
Vững như núi, gió mưa rơi không động
Bao giờ trông nhà to rộng, hởi ôi!
Nhà ta bay, chết rét, cũng đành thôi.
Đây được coi là những câu thơ hay nhất, có giá trị về tư tưởng sâu sắc nhất của nhà thơ. Chỉ vẻn vẹn trong năm câu cuối thể hiện tấm lòng cao cả của một kẻ sĩ chân chính: thương dân và lo đời.
Nếu như con người nằm sâu trong nỗi đau thương tang tóc tới phũ phàng của cuộc đời, thì họ dễ bị rơi vào sự bi trầm rồi gục đầu cam chịu, khi thì than thân trách phận, khi cùng quẫn mà bế tắc làm liều. Giống như kẻ bần cùng sinh đạo tặc. Thế nhưng với Đỗ Phủ, thì ông chịu cái cảnh ngồi suốt đêm trong mưa lạnh rét buốt, thay vì ông nghĩ tới ước mơ cho riêng mình và gia đình của mình thì thì ông lại một lần nữa làm người đọc thêm bất ngờ trước cái chí của một kẻ sĩ chân chính.
Ông mơ ước có một nhà “muôn ngàn gian ” vô cùng vững chắc “Gió mưa chẳng núng vững như thạch bàn”. Ngôi nhà mà ông ước đó có phải là kì vọng về một xã hội hòa bình yên ổn, thiên hạ ấm no? Đọc tới đây ta có thể thấy được tấm lòng của một nhà nho chân chính: nghĩ cho đời mà quên mình, “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Bằng biện pháp tu từ so sánh và thậm xưng, diễn tả ước mơ to lớn và hoài bão rộng khắp bao trùm thiên hạ của một nho sĩ yêu nước thương dân.
Trong cái khốn cùng ấy mà xót cảnh mình, trách thân mình kém tài kém đức. Giận chính mình vì bất lực mà chẳng đem lại cho bách tính con đường thoát khỏi lầm than. Tâm tình của ông như viên ngọc bừng sáng với lòng nhân ái bao la với sự thấu hiểu và thương xót cho những mảnh đời bất hạnh trong binh đao loạn lạc.
Trong bể dâu của thế sự điên cuồng, ông mong mỏi một ngôi nhà rộng lớn có thể dung chứa tất thảy những tấm thân bé nhỏ khốn cùng. Chứng kiến thảm cảnh đói, khát, rét mướt, mưa gió chẳng nơi nương thân thì Đỗ Phủ như bao nhiêu anh hùng kẻ sĩ khác, đều ôm trong mình nỗi lo đời và thương người, khao khát hạnh phúc cho muôn dân.
Tác giả nêu ra một giả định rất chân thành cảm động. Nếu thấy ngôi nhà “muôn ngàn gian” trong mơ trở thành hiện thực thì riêng Đỗ Phủ “lều ta nát, chịu chết rét cũng được”.
Chỉ trong mấy câu thơ mà Đỗ Phủ đã chân thực nói lên cảm xúc chân thành của mình. Cảm xúc và ước nguyện của ông mang tính nhân văn cao cả, câu thơ của ông như ngọn lửa sưởi ấm tình người trong đêm thu mưa lạnh.
Khổ thơ cuối cùng của bài là sự kết hơp giữa yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn đã tạo nên giá trị nhân bản sâu sắc. Do đó mà qua rất nhiều thế hệ người đọc, họ đều đưa ra nhận định khổ thơ này là hình ảnh đẹp nhất và đắt giá nhất trong bài.
Trải qua hơn 130 năm lịch sử, bài Mao ốc vị thu phong sở phá ca của Đỗ Phủ để lại cho ta rất nhiều cảm xúc rung động, những hình ảnh thơ của ông khắc sâu trong tâm trí người đọc. Đâu đó vẫn còn vương lại những hình ảnh đau khổ và nỗi cay đắng của một nhà thơ vĩ đại lỗi lạc đời Đường đã phải trải qua. Rồi những khoảnh khắc rung động con tim khi những ước mơ bình dị tuyệt đẹp mang đầy tính nhân văn khi con người ở tận cùng của đau khổ.
Trong cái cảnh loạn lạc, binh đao khói lửa ấy giấc mơ của ông bao trùm cả những ước vọng của bách tính muôn dân. Một giấc mơ mang đậm tình nhân ái sau cái vị đắng cay cùng cực của cuộc đời.
(Bài viết sử dụng bản dịch thơ của Khương Hữu Dụng)
Tịnh Tâm