Chuyện Kinh Thánh là tác phẩm văn học nổi tiếng của nữ văn hào Pearl Buck – người đã từng đạt giải Nobel Văn Chương năm 1938 và giải thưởng báo chí Pulitzer năm 1931. Từ tác phẩm Kinh Thánh, bà đã chọn lọc, sắp xếp các câu chuyện theo trình tự thời gian, rồi thổi hồn vào đó, chấm phá những nét khóc cười của nhân vật để khiến truyện gần gũi mà vẫn tôn trọng nguyên tác.
Chuyện Kinh Thánh mô tả cuộc hành trình về với đức tin nguồn cội của dân Do Thái, cũng là của cả loài người. Là nhịp cầu tâm linh nối tâm hồn con người với Đấng Cao Cả. Tác phẩm được đánh giá rất cao từ giới chuyên môn cũng như người đọc phổ thông, cả trong và ngoài đạo Thiên Chúa.
Vì lấy cảm hứng từ Kinh Thánh – cuốn sách ẩn chứa nhiều huyền cơ và những hàm nghĩa uyên thâm – nên tác phẩm của Pearl Buck cũng mang trong mình nhiều giá trị lớn lao. Đại Kỷ Nguyên trân trọng giới thiệu tiểu mục dài kỳ Chuyện Kinh Thánh bao gồm các câu chuyện trong nguyên tác. Cũng trong loạt bài viết này, người viết mạn phép chia sẻ những hiểu biết và thể ngộ nông cạn của bản thân, rất mong được bạn đọc gần xa góp ý và thảo luận.
Kỳ 10: Cuộc viếng thăm của những người lạ
Ngày nọ, Thiên Chúa hiện ra với Abraham khi ông ngồi nơi bóng mát cửa lều trong cơn nóng ban ngày. Ông lão Abraham nhìn lên, thấy có ba người lạ đang đi về phía ông, xuyên qua các cây sồi cao đang tỏa bóng mát xuống lều trại. Ông hiểu ngay là họ đến từ một xứ rất xa. Ông chắc chắn trong lòng rằng Chúa đang đến với ông dưới hình thức ba thiên sứ từ trời xuống. Dù họ là thiên sứ hoặc chỉ là những lữ khách bình thường băng ngang sa mạc, Abraham vẫn tiếp đón họ với lòng hiếu khách nồng hậu; nhưng không biết sao, ông hiểu rằng họ chẳng có vẻ gì bình thường.
Từ cửa lều, ông chạy ra gặp họ và vái sâu sát đất. “Thưa các ngài,” ông nói, “nếu tôi được ơn huệ trong mắt các ngài thì xin đừng tiếp tục đi xa nữa. Tôi xin các ngài hãy ở lại nơi đây. Tôi sẽ mang nước tới để các ngài rửa chân. Xin các ngài hãy nghỉ ngơi dưới bóng cây và tôi sẽ kiếm miếng bánh để các ngài lót lòng trước khi tiếp tục cuộc hành trình”.
Họ cảm ơn ông và chấp nhận. “Cứ làm theo lời ngươi,” họ trả lời. “Chúng ta sẽ nghỉ ngơi tại đây với ngươi”.
Vậy Abraham đem nước mát tới cho họ rửa chân vì thời đó có tục lệ các lữ khách cần rửa chân và để chúng thư giãn khi họ dừng lại trong chốc lát trên đường. Rồi ông lật đật vào lều tìm Sarah và nói, “Mau lên bà! Lấy ba đấu bột tinh, nhồi bột rồi tráng bánh”.
Bà lập tức bắt tay làm việc không chút thắc mắc, trong khi đó Abraham chạy ra đàn súc vật, lựa một con bê non và béo tốt, đưa cho người làm sửa soạn quay thịt. Khi mọi sự đã sẵn sàng, ông mang bơ, sữa, bánh tráng và thịt bê quay tới những người lạ đang chờ. Ông đặt thức ăn xuống trước mặt họ, dưới bóng mát một tàng cây lớn. Trong khi họ ăn, ông đứng bên cạnh họ, dưới tàng cây; và khi đã no lòng, bắt đầu nghỉ ngơi, họ chuyện vãn với ông.
“Sarah vợ ngươi đâu?” họ hỏi, vì họ ngồi xoay lưng lại với lều và họ chưa thấy bà.
“Nhà tôi ở trong lều,” Abraham nói.
“Chúa sẽ chúc lành cho bà ấy” một người nói, người mà Abraham nghĩ đó hẳn là chính Thiên Chúa. “Sarah vợ ngươi sẽ có một đứa con trai vào ngày giờ đã định, như ta có hứa”.
Lúc này, Sarah núp bên trong cửa lều, nghe nói như vậy, bà cười. Trước đây bà đã nhiều lần nghe nói tới lời hứa ấy, và lúc này, đã quá trễ để lời hứa ấy thành sự thật. Cả bà lẫn Abraham đều quá già: Ông đã một trăm tuổi, bà chín mươi, hai người đã quá tuổi có thể có con. Vì vậy, Sarah cười thầm trong bụng.
Và Chúa, Đấng quả thật có mặt trong ba người lạ đó, nói: “Tại sao Sarah lại cười, và lại nghĩ rằng mình quá già không thể cưu mang một đứa con? Đối với Chúa, có cái gì quá khó không? Đúng thời điểm đã định, ta sẽ trở lại với người và Sarah, và lúc đó, bà ấy chắc chắn sinh con”.
Sarah nghe lời đó và thình lình hoảng hồn. Làm sao người ấy có thể nghe ra tiếng bà cười thầm và các ý nghĩ trong lòng bà? “Tôi có cười đâu,” bà chối, từ cửa lều hãi hùng nhìn ra ngoài.
“Nhưng ngươi đã cười,” Chúa nói. Tuy vậy ngài không nổi giận vì ngài thông cảm những nghi ngờ của bà.
Rồi cả ba người, trong đó có Chúa, đứng lên. Từ bên dưới tàng cây đó, họ cùng nhìn về phía Sodom vì họ đang tìm đường đi tới thành đó. Abraham chỉ đường và đi với họ một quãng ngắn. Trong khi dẫn họ ra đường đi Sodom, ông ngạc nhiên tự hỏi không biết họ có công việc gì phải làm tại các thành độc dữ đó. Lot cháu ông vẫn sống nơi ấy, và Abraham nghe nhiều chuyện về tội lỗi đang ngày càng tăng trong dân thành ấy. Thêm lần nữa, như thể Chúa nghe ra các ý nghĩ của ông.
“Lẽ nào ta giấu ngươi điều ta sắp làm?” Chúa nói. “Không, Abraham ạ, vì ta hiểu ngươi. Ta biết rằng ngươi sẽ trở nên một dân tộc vĩ đại và hùng mạnh, và rằng ngươi sẽ dạy con cái ngươi và con cái của con cái ngươi sống công chính và đi theo đường lối của Chúa. Vậy ta sẽ kể cho ngươi biết điều ta sắp phải làm. Lúc này, ta sắp tới Sodom vì dân ở đó đầy tội lỗi. Tiếng độc dữ của hai thành Sodom và Gomorrah đã kêu thấu các tầng trời. Trước hết ta sẽ tới Sodom để tận mắt mình thấy chúng có quả thật bại hoại đúng như đã được báo cáo cho ta hay không, và ta sẽ tìm biết coi quả thật hai thành đó có độc dữ như bề ngoài của chúng hay không. Khi nhìn chúng, ta sẽ biết. Và ta sẽ biết mình phải cư xử với chúng như thế nào”.
Abraham dừng lại giữa đường và đứng trước mặt Chúa. Ông hiểu ngụ ý của những lời đó. Ông nghĩ tới Lot đang ở Sodom và tới những người khác có thể không đáng phải chết. Hai người cùng đi với Chúa lách qua một bên và tiếp tục đi tới thành độc dữ đó, nhưng Abraham vẫn đứng trước mặt Chúa.
“Nhưng chắc chắn ngài sẽ không tiêu diệt người lành chung với kẻ dữ chứ?” ông nói một cách lo lắng, “có thể bên trong thành quách của Sodom có năm mươi người ngay lành. Lẽ nào ngài cũng tiêu diệt luôn họ hay ngài sẽ vì họ mà tha thứ cho thành đó? Thật lạ lùng nếu Chúa giết người lành chung với kẻ dữ. Làm vậy là không đúng. Và, lẽ nào Đấng Phán Xét tất cả thế gian lại cư xử không chính đáng?”.
Chúa cảm thấy thương xót Abraham và toàn thể dân thành đó. “Nếu ta tìm thấy có năm mươi người ngay lành tại Sodom,” Thiên Chúa nói với Abraham, “thì ta sẽ không tiêu diệt dân chúng hoặc thành đó. Vì những người ngay lành ấy, toàn thể Sodom sẽ được cứu”.
Abraham nghĩ vậy là hết rồi! Ông cảm thấy mình quá đường đột ăn nói kiểu đó với Chúa của tất cả thế gian, nhưng ông ráng thêm lần nữa. Ông thắc mắc không biết hy vọng vào con số năm mươi có phải là quá nhiều. Ông đề nghị, “có thể sẽ ít hơn năm mươi một chút. Có thể ít hơn năm người. Lẽ nào ngài hủy diệt toàn bộ thành đó vì thiếu năm người cho đủ số năm mươi?”.
Chúa nói, “Nếu ta tìm thấy bốn mươi lăm người lành, ta sẽ không tiêu diệt thành đó”.
Nhưng Abraham vẫn cảm thấy lo âu. Ông không muốn bất cứ người tốt nào bị tiêu diệt chung với kẻ xấu, nhưng theo sự đánh giá chung về Sodom mà ông nghe được thì có vẻ không thể tìm ra ở đó tới bốn mươi lăm người ngay lành. “Có thể sẽ có ít hơn số bốn mươi,” ông nói tần ngần.
Chúa nhẫn nại với ông, vì chính Chúa cũng không muốn tiêu diệt người công chính. “Vì bốn mươi người ấy, ta sẽ không tiêu diệt thành đó,” ngài bảo Abraham.
Bốn mươi có vẻ là con số cũng khó trông mong tại một thành như Sodom. Abraham tiếp tục nài nỉ. “Ôi, thưa Chúa, xin đừng nổi giận với tôi, nhưng nếu ở đó có ít hơn bốn mươi thì sao? Có thể không hơn ba mươi?”.
“Thế thì ta sẽ không làm vậy,” Chúa trả lời. “Nếu ta tìm được ba mươi linh hồn ngay lành ở đó, ta sẽ không làm vậy”.
“Thưa Chúa,” Abraham nói, “lúc này cái thân hèn mọn của tôi đang quá đường đột vì tôi không thể nhịn miệng được. Tôi xin phép được hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu tìm được ở Sodom hai mươi người tốt?”.
“Ta sẽ dung tha thành đó vì hai mươi người ấy”.
Nhưng biết đâu tại Sodom chỉ tìm được ít hơn hai mươi người ngay lành và một trong số những người đó là cháu Lot của ông. “Ôi xin đừng nổi giận, thưa Chúa,” Abraham van nài ngài. “Đây là lần chót tôi mở miệng. Nếu ở đó chỉ có mười người thôi thì sao?”.
“Nếu ở đó có mười người tốt thì vì mười người đó, ta sẽ không tiêu diệt nơi đó,” Chúa bảo đảm với ông rồi tiếp tục lên đường. Ông nhìn theo ngài bước đi xa dần tới cái thành độc dữ bại hoại đó, rồi ông quay trở về chỗ của mình trong lều trại, nghĩ tới số phận đứa con trai của người em ông.
Ông chỉ có thể hy vọng rằng các thiên sứ của Chúa tìm được mười người ngay lành giữa những kẻ dữ đó để họ và thành của họ được cứu.
Lời bàn:
Một điều khiến người đọc chúng ta thấy cực kỳ cuốn hút ở Kinh Thánh, đó là vì đây là cuốn sách nói những lời giản dị, không quá văn hoa. Nhưng hàm chứa trong những tình tiết, câu từ có thể dễ bị bỏ qua đó là những nội hàm vô cùng sâu sắc.
Tại sao Thiên Chúa và hai thiên sứ lại đi bộ đến thành Sodom? Sao ngài không bay trên mây và thực hiện mọi cuộc xét xử loài người từ trên thiên giới của Ngài?
Thứ nhất, Thiên Chúa muốn thực sự tiếp xúc với những con người tội lỗi ở Sodom và Gomorrah dưới hình dáng những người bình thường. Ngài thực hiện một cuộc vi hành. Tất nhiên, những con người u mê lầm lạc đó không thể biết đó là Thiên Chúa. Họ khác Abraham. Người ta đối xử với Thiên Chúa và các thiên sứ ra sao, thì cũng chính là lối cư xử thường ngày của họ, thế là họ tự phân loại mình xem có xứng đáng với phán xét của Thiên Chúa hay không? Đó là cơ hội cuối cùng của họ và không ai có thể kêu oan được.
Thứ hai, Thiên Chúa không nhất thiết phải đi qua nhà Abraham. Nhưng ngài cũng muốn xem thử “Người bạn của Thiên Chúa” này – người được Ngài ban cho mọi ơn huệ và khiến cho dòng dõi trở thành một dân tộc lớn được ân sủng – sẽ đối xử với ngài ra sao. Về điều đó thì ngài không phải thất vọng. Abraham trước sau vẫn là một người trung hậu, dù là một người khách bình thường ông còn tiếp đón rộng rãi, nữa là Đức Thiên Chúa kính yêu của ông.
Ngài cũng muốn thông báo cho vợ chồng Abraham – Sarah biết rằng, đã đến lúc ngài thực hiện lời hứa ban cho vợ chồng họ một đứa con chung. Tất nhiên, khi nói câu đó thì ngài khiến Sarah đủ nghe thấy nhưng Sarah lại không biết đó là Thiên Chúa. Bà cười thầm bởi câu chuyện quá vô lý. Làm sao hai vợ chồng bách niên lại có thể sinh con được nữa. Rõ ràng, bà vẫn dùng những quan niệm của thường nhân để đánh giá những lời của Đấng Siêu Thường. Ở phương Đông, người ta gọi đó với tên gọi: chấp trước. Khi đã là lời của Thiên Chúa thì dù vô lý với logic của người thường đến đâu, nó nhất định sẽ xảy ra. Sarah vẫn luôn là người có đức tin không đủ mạnh và nhiều chấp trước. Tất nhiên, Thiên Chúa bỏ qua cho Sarah vì tình yêu thương hay đức từ bi của ngài với con người.
Thứ ba, ngài cũng muốn cho Abraham biết rằng ngài đang định đi xóa sổ hai ngôi thành độc dữ Sodom và Gomorrah. “Lẽ nào ta giấu ngươi điều ta sắp làm?” Chúa nói. “Không, Abraham ạ, vì ta hiểu ngươi…”. Và ngài cho Abraham cơ hội lên tiếng thay cho những người đó. Rõ ràng là, lời nói của một người ngay thẳng, trung hậu và công chính mới có thể kêu cầu đến các Thần. Và lời cầu xin đó cũng phải mang tâm thiện và vị tha chứ không phải cho lợi ích cá nhân.
Ngày nay có nhiều người nghĩ rằng những lời cầu khấn của mình có thể động đến lòng Trời, khiến các Thần Phật ban phát cho họ những phương tiện vật chất làm đời sống thoải mái. Nếu thông hiểu Kinh Phật, Kinh Thánh, chúng ta sẽ biết rằng không có Thần Phật nào can thiệp vào lý Nhân Quả hết. Ai xứng với điều gì thì sẽ nhận được điều ấy. Chỉ có quỷ quái mới đáp ứng những đòi hỏi vô căn cứ đó mà thôi.
Vì thế, Thiên Chúa bỏ qua cho việc Abraham dám đứng trước mặt ngài, cản lối ngài đang đi tới để cầu xin cho những người sống trong hai ngôi thành đó. Abraham cũng đánh liều “nói lời ràng buộc” với Thiên chúa cao cả. Làm gì có ai dám đứng trước Thiên Chúa mà nói những lời táo gan này: “Thật lạ lùng nếu Chúa giết người lành chung với kẻ dữ. Làm vậy là không đúng. Và, lẽ nào Đấng Phán Xét tất cả thế gian lại cư xử không chính đáng?”. Abraham nơm nớp lo sợ, nhưng Thiên Chúa từ bi đã bỏ qua cho ông vì chính ngài cũng không muốn làm chuyện đó.
Chỉ cần có một cộng đồng nhỏ gồm những người tốt thôi, thì một xã hội độc dữ đã có thể không bị tiêu diệt. Thật bi hài làm sao, một ngôi thành đông nghịt dân mà chẳng có đến 10 người được coi là thực sự tốt. Không biết những người dân trong thành ấy, trước một sự việc thì họ chọn hành động theo số đông, hay hành động theo lương tâm mách bảo, bất chấp việc ấy có thể khiến họ bị cô lập và hãm hại?
Hoặc ít nhất họ cũng dám đứng ra nói lời công đạo bảo vệ những người lương thiện và có đức tin. Nhưng không, số người ấy quá ít. Ai cũng chọn đám đông cho an toàn. Có thể thực sự an toàn không? Câu trả lời là không. Vì bất cứ việc gì cũng có giới hạn tồn tại, nhất là sự độc dữ. Người ta thấy rằng quả báo cho những kẻ dữ sao mà lâu tới đến thế? Trong khi không biết không cảm thấy thì những tiếng kêu oan khốc của dân lành đã vang tới các tầng trời, kêu gọi một sự thực thi công lý của cao xanh. Một đời người vẫn luôn luôn là quá ngắn để tự mình nhìn thấy lý Nhân Quả ấy được thực thi.
Chúng ta sắp chứng kiến ngày tàn của Sodom và Gomorrah trong cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời trong kỳ sau.
Bình Nguyên