Nói năng lễ phép, nhường nhịn khoan dung, tuân thủ lời hứa, cởi mở chân thành… là những đức tính giúp phân biệt người quân tử có tu dưỡng và kẻ tiểu nhân vô đạo.
Truyền thống Á Đông tự ngàn xưa vốn trọng sự hàm dưỡng, tu luyện bản thân. Nho gia quan niệm “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, Đạo gia giảng về tu chân dưỡng tính còn Phật gia thuyết về đạo tu hành chính quả. Và quả thực, người ta được tôn trọng không phải vì bạc tiền, chức tước, công danh mà chính ở sự tu dưỡng, phẩm giá bên trong của mình.
Dưới đây là vài đặc điểm của một người có nội tâm thanh khiết như vậy:
Chân thành
Người xưa kết giao với nhau trọng nhất là sự chân thành, cởi mở. Người ta nói, quân tử kết giao nhạt như nước còn tiểu nhân kết giao nồng như rượu. Đương nhiên, rượu hấp dẫn hơn, hương vị khó quên nhưng quá chén thì say, tổn hại thân thể. Còn nước chẳng mùi, chẳng vị, đạm bạc vô cùng mà lại thiết yếu vô cùng.
Xưa nay chỉ nghe có người nhịn rượu chứ chưa từng nghe ai sống được mà thiếu nước bao giờ. Người kết giao như nước thì chơi với nhau hoài không chán, không thắm cũng không phai, lúc nào cũng chân thành, phóng khoáng.
Lại có người nói: “Thành thật không mang đến quá nhiều bạn bè nhưng luôn mang lại những người bạn đúng nghĩa nhất“. Một tình bạn chân thật, không vụ lợi chính là tài phú của đời người, hạnh phúc của đời người. Trong biển trời giông bão, người bạn chân thành không ngại vươn cánh tay ra dìu đỡ ta. Họ có thể không thường ở bên ta tận hưởng niềm vui nhưng lúc ta phải đối diện với nỗi đời cơ cực thì họ chẳng bao giờ vắng mặt.
Một người sống chân thành, giản dị, trung thực thì cả đời hưởng phúc, cũng cả đời gieo phúc đức đến vạn vật xung quanh.
Người chân thành đương nhiên có một tâm hồn thiện lương. Người khác ở bên cảm thấy sự ấm áp tỏa ra từ trái tim họ. Vì họ chân thành nên chẳng tính toán thiệt hơn, chẳng so đo cao thấp, lại thích ra tay giúp người. Ở đời, cái gọi là tri kỷ chính là bắt đầu từ những tấm chân tình rất mực như thế.
Xưa Bá Nha làm quan đại phu ở nước Tấn, trên đường đi sứ, gặp đêm thu gió mát trăng thanh, mang đàn ra gảy, chẳng may dây đứt. Ngờ rằng có người nghe lén, Bá Nha bèn cho quân sĩ lên dò hỏi, thì ra có chàng Chung Tử Kỳ ẩn dật, đốn củi trên núi. Sau khi tương ngộ, Bá Nha sửa lại ngón đàn, gảy khúc “Cao sơn lưu thủy”. Tử Kỳ lắng tai, tâm hồn rung cảm, thấu đến hồn phách, đàm đàm luận luận, không ngớt tán thưởng.
Bá Nha giật mình, biết là gặp được tri âm, bèn muốn đưa Tử Kỳ về để sớm hôm đàm đạo. Tử Kỳ thoái thác vì còn phải chăm sóc phụ mẫu. Bá Nha lại hẹn mùa thu năm sau gặp nhau dưới bến sông này. Tử Kỳ đồng ý. Chẳng ngờ mùa thu năm ấy, y hẹn Bá Nha về chốn cũ thì nghe tin Tử Kỳ đã mất vì bạo bệnh. Lòng đau khôn xiết, tế viếng mộ bạn, đàn khúc “Cao sơn lưu thủy” xong, Bá Nha bèn đập nát cây đàn, thề không bao giờ gảy nữa vì nay đã mất một tri âm. Tấm chân tình ấy chỉ có bậc quân tử mới có được vậy!
Điềm tĩnh
Phàm người làm việc lớn xưa nay đều phải có tĩnh khí. Sự điềm tĩnh ấy đến từ một nội tâm mạnh mẽ. Họ không phải kiểu người gặp việc “bình chân như vại”, phó mặc, buông xuôi, cũng không phải kiểu ba phải, không chính kiến, nội tâm trống rỗng. Đối diện với bi kịch, khó nạn, dẫu như núi Thái Sơn đổ sập trước mắt, một người điềm tĩnh cũng không chớp mắt, bận lòng, suy suyển.
Người có tĩnh khí ắt là cũng có bản lĩnh phi thường. Bình tĩnh thì mới nhìn được chân tướng sự việc, mới biết cách đối đãi sao cho vẹn toàn sau trước. Hấp tấp, vội vã chỉ làm hỏng việc. Ấy là cách ứng xử của kẻ thất phu, gặp việc là nóng giận mất khôn, chịu nhục thì tuốt kiếm tương đấu.
Hàn Tín xưa giữa đường gặp cường đạo chặn đường thách giết, nếu là tay vũ dũng thì có thể một đao kết liễu kẻ vô lại kia. Nhưng Hàn Tín lòng đầy bình thản, ung dung điềm tĩnh, điềm tĩnh đến độ chấp nhận chui qua háng kẻ vô lại để tránh tự rước lấy chuyện thị phi.
Quan Vân Trường bị trúng tên độc, cánh tay sưng phù. Thần y Hoa Đà đến chữa, muốn mổ tay ra, yêu cầu Quan Công che mặt, uống thuốc mê giảm đau. Quan Công gạt phăng, sai bày bàn cờ điềm tĩnh ngồi đánh cờ với Mã Lương, để mặc cho Hoa Đà rạch tay, cạo xương ken két, ai nghe cũng rợn người.
Người điềm đạm, bình tĩnh thì dẫu thân có nằm trong cảnh phồn hoa, ồn ã mà lòng vẫn yên định như không. Đối với những tranh đoạt trong đời họ hoàn toàn để ngoài tâm. Họ chọn cho mình một chỗ đứng cao hơn để tĩnh lặng nhìn thế sự. Người bình tĩnh không phải kẻ nhu nhược, yếu mềm mà thực ra rất cứng cỏi, kiên định vậy.
Giữ chữ tín
Có câu “Quân tử nhất ngôn, tứ mã nan truy” (quân tử nói một câu, bốn ngựa khó đuổi kịp). Lời nói của một người có tu dưỡng tuyệt nhiên sẽ không tùy tiện. Lời hứa của một người quân tử có sức nặng còn hơn cả chuyện sinh tử. Từ xưa đến nay, người thành tín đi đến đâu cũng được quý trọng và có thể làm nên việc lớn.
Thời Tam Quốc, Thái Sử Từ sức khỏe hơn người, giao đấu với “Tiểu Bá Vương” Tôn Sách bất phân thắng bại. Sau ông bị vây bức, bại trận, Tôn Sách bắt được bèn chiêu hàng. Thái Sử Từ xin Tôn Sách cho mình đi chiêu tập những quân sĩ cũ, sau 60 ngày sẽ lại quay về dưới trướng.
Tôn Sách tin lời, sai đi, quần thần dưới trướng đều cho rằng chuyến này Thái Sử Từ đi tất không trở lại. Tuy nhiên, 60 ngày sau, y hẹn, Thái Sử Từ trở về, lại dẫn theo hơn 1 vạn quân quy hàng Tôn Sách. Thế lực Tôn Sách lại càng mạnh thêm lắm. Sau chuyện này, Thái Sử Từ càng được Tôn Sách cảm mến, tín phục.
Muốn làm nên việc lớn, giữ chữ tín chính là yếu tố đầu tiên, cũng là quyết định. Giữ chữ tín thì thu nạp được lòng người. Bội ước, thất tín thì trước sau cũng bị xa lánh.
Vậy nên có người nói, chữ tín là tài sản quý báu nhất đời người, đi khắp thiên hạ cũng không sợ không chốn dung thân.
Khoan dung
“Lùi một bước, biển rộng trời cao“, lời người xưa dạy quả nhiên chí lý. Một điều nhịn là chín điều lành, nhường người một phần thì tâm tình mình thêm mấy phần khoáng đạt. Khoan dung trước là nhường nhẫn, không tranh không đoạt, sau là bao dung, vị tha, không kể lỗi lầm, tha thứ vô điều kiện.
Sống trên đời, hầu như ai cũng từng một lần phạm phải sai lầm. Nhưng sai lầm không phải là thảm họa, tội lỗi. Nó là cơ hội để một người tự quản lại bản thân, đúc rút bài học nhân sinh, đề cao năng lực. Bậc khoan dung luôn nhìn thấy điểm tốt đẹp ấy trong những sai lầm của người khác. Ngược lại, kẻ không thể quên được sai lầm của người khác thì chính là mảnh tâm hẹp hòi, không thể bao dung, càng không nói chuyện lấy Thiện đãi người.
Gia Cát Lượng mang quân chinh phục miền Nam, vào nơi hiểm địa, rừng sâu nước độc, 7 lần bắt được thủ lĩnh dân Man là Mạnh Hoạch lại 7 lần thả đi. Đương nhiên, ông không rảnh rỗi để chơi trò “bắt cóc bỏ đĩa” ấy mà là muốn lấy đức phục người, đem nhân nghĩa mà giáo hóa kẻ vũ phu.
Quả nhiên, đến lần thứ 7, Mạnh Hoạch tâm phục khẩu phục, đuổi cũng không đi, một lòng một dạ theo hầu Gia Cát. Sau này, khi Gia Cát Lượng mất, Mạnh Hoạch đau xót đứt từng khúc ruột, tưởng như cha mẹ, anh em qua đời.
Tha thứ không phải ban phát ân huệ cho kẻ khác mà chính là tự cởi trói cho bản thân mình
Tự soi xét mình
Đó là một đức tính quý báu mà cổ nhân lưu lại. Tự xét mình, phản tỉnh hầu như đã trở thành một phản xạ của người xưa. Khổng Tử dạy: “Kiến hiền tư tề yên, kiến bất hiền nhi nội tự tỉnh dã” (tạm dịch: Thấy người hiền thì tự coi mình có bằng hay không, thấy kẻ không hiền thì tự xét lại mình). Đó chính là luôn luôn hướng nội, học hỏi.
Người xưa, mỗi ngày thường dành ra một khoảng thời gian để chiêm nghiệm lại mình, thấy khuyết điểm thì sửa, hoặc như không có sai sót thì cũng tự răn mình chớ phạm vào điều lễ tiết. Người biết tự soi xét mình chính là có trí huệ cao thâm, gặp việc thì tìm sai ở bản thân, không oán trách, đổ lỗi cho người khác. Vậy nên họ nói thì phát ra lời chân chính, làm thì ra việc quang minh, lỗi lạc.
Xưa nay, sự khác biệt giữa người quân tử và kẻ tiểu nhân cũng chỉ khác nhau ở việc đó. Bậc quân tử thường tự trách mình, nhận ra điều thiếu sót, từ đó không ngừng đề cao cảnh giới. Kẻ tiểu nhân thì mãi tìm lỗi ở người, oán trời trách đất, u u mê mê, cuối cùng cả đời mang hận.
Mạnh Tử nói: “Làm mà chẳng đạt, đều phải quay lại xét mình. Thân mình ngay thẳng thì thiên hạ cũng quy thuận theo“. Khi phòng thí nghiệm bị ngọn lửa thiêu rụi ra tro, bao công trình đều tan thành mây khói, nhà bác học Edison vẫn đứng giữa đống đổ nát nói: “Tai nạn này mang đến cho ta một giá trị vĩ đại. Mọi lỗi lầm chúng ta gây ra đều bị xóa sổ hoàn toàn. Cảm ơn Thượng Đế. Giờ đây, chúng ta có thể bắt đầu lại“. Cho đến các bậc quân vương ngày xưa, mỗi khi thiên tai nhân họa bùng phát, việc đầu tiên họ làm chính là lập đàn tế Trời, tự vạch tội mình, nhận lỗi với cả thiên hạ.
Vì thế, ở đời, người biết tự soi lại bản thân chính là người thành công nhất!
Một người tu dưỡng đương nhiên không chỉ biểu hiện ra những đặc điểm trên. Họ còn phải có lòng nhẫn nại, ý chí kiên cường, lòng từ bi, thiện lương… Người có tu dưỡng chính là tinh hoa của thế gian, là ngọn đèn bão dẫn đường cho xã hội, nhân loại tiến về bến bờ chân chính nhất. Quả đúng là:
Tâm tính sửa sang chẳng phút ngơi
Đạo Trời thấu tỏ chuyển lòng người
Hồng trần tựa bóng trăng in nước
Bóng câu lướt cửa sổ mà thôi