Trong lịch sử đã ghi nhận rất nhiều đại dịch. Đại dịch hạch, hay dịch hạch đen xảy ra ở châu Âu thế kỷ 13 đã một phần ba dân số tử vong. Tây Ban Nha năm 1918 xuất hiện dịch cúm làm chết khoảng 40 triệu người. Gần đây nhất là đại dịch cúm 2009 ở nhiều quốc gia. Bài học hôm nay sẽ giúp chúng ta hiểu được hậu quả và mức độ lây lan của đại dịch.

We live in an interconnected, an increasingly globalized world. Thanks to international jet travel, people and the diseases they carry can be in any city on the planet in a matter of hours. And once a virus touches down, sometimes all it takes is one sneeze to spread the infection throughout the community. When humans were hunter-gatherers, roaming the wild savannas, we were never in one place long enough, and settlements were not large enough to sustain the transmission of infectious microbes.

Chúng ta sống trong một thế giới kết nối mạnh mẽ quy mô toàn cầu. Nhờ vào hàng không quốc tế, mọi người và mầm bệnh của họ có thể lan ra toàn thế giới chỉ trong vài giờ. Và một khi virus đáp xuống, đôi khi chỉ cần một cái hắt hơi nó có thể truyền nhiễm ra toàn cộng đồng. Khi con người còn săn bắt – hái lượm, rong ruổi trên thảo nguyên chúng ta không bao giờ dừng lại đủ lâu và việc cư trú cũng không đủ rộng để có thể lây truyền vi khuẩn gây bệnh.

But with the advent of the agricultural revolution 10.000 years ago, and the arrival of permanent settlements in the Middle East, people began living side-by-side with animals, facilitating the spread of bacteria and viruses between cattle and humans. Epidemics and pandemics come in many shapes and forms. In 2010, for instance, a devastating earthquake struck Haiti, forcing thousands of people into temporary refugee camps. Within weeks, the camps had become breeding grounds for cholera, a bacteria spread by contaminated water, triggering a country-wide epidemic.

Nhưng với sự tiến bộ của cách mạng nông nghiệp 10 ngàn năm trước, và việc định cư lâu dài ở khu vực Trung Đông, mọi người bắt đầu sống gần động vật hơn, tạo điều kiện cho vi khuẩn, virus lây truyền giữa gia súc và con người. Bệnh dịch và đại dịch hình thành với nhiều dạng khác nhau. Năm 2010 chẳng hạn, cơn động đất gần như hủy diệt Haiti, đẩy hàng ngàn người vào những trại tị nạn. Trong vài tuần, các khu trại trở thành trung tâm của bệnh dịch tả, một loại vi khuẩn lây lan qua nguồn nước, gây dịch bệnh trên quy mô quốc gia.

But the most common cause of epidemics are viruses, such as measles, influenza and HIV. And when they go global, we call them pandemics. Pandemics have occurred throughout human history, Some have left scars on the tissue and bone of their victims, while evidence for others comes from preserved DNA. For instance, scientists have recovered DNA from the bacteria that transmits tuberculosis from the remains of ancient Egyptian mummies. And in 2011, scientists investigating a plague pit in the city of London were able to reconstruct the genome of Yersinia pestis, the bacterium responsible for the Black Death of the 14th century.

Nhưng nguyên nhân thường thấy nhất của dịch bệnh là virus, như là bệnh sởi, bệnh cúm và HIV. Và khi nó lan ra thế giới, ta gọi là đại dịch. Các đại dịch đã hiện diện xuyên suốt lịch sử loài người, một số để lại dấu vết lên mô và xương của nạn nhân trong các bằng chứng khác lại đến từ DNA được bảo quản. Ví dụ, các nhà khoa học đã phục hồi DNA từ loại vi khuẩn truyền nhiễm bệnh lao từ những xác ướp thời Ai Cập cổ đại còn lại. Và năm 2011, các nhà khoa học điều tra về một căn bệnh ở Luân Đôn đã có thể tái tạo lại chuỗi gene của vi khuẩn Yersinia pestis, là loại vi khuẩn gây ra đại dịch Cái Chết Đen vào thế kỷ 14.

(Ảnh: tinmoi.news)

It is thought the plague originated in China in around 1340, spreading west along the Silk Road, the caravan route running from Mongolia to the Crimea. In 1347, the plague reached the Mediterranean, and by 1400, it had killed in excess of 34 million Europeans, earning it the title, the Great Mortality. It was later historians who called it the Black Death. However, by far the greatest pandemic killer is influenza.

Nó được cho là căn bệnh bắt nguồn từ Trung Quốc khoảng năm 1340, lan ra phía Tây qua Con đường Tơ lụa hành trình chạy dài từ Mông Cổ đến Crimea. Năm 1347, dịch bệnh lan tới Địa Trung Hải, và năm 1400, thương vong đã đạt tới 34 triệu dân châu Âu, được gắn với tên gọi Đại Tử Vong. Sau đó các sử gia gọi nó là Cái Chết Đen. Tuy nhiên, đại dịch tàn sát khủng khiếp nhất là dịch cúm. 

Flu is constantly circulating between the Southern and Northern Hemispheres. In North America and Europe, seasonal flus occur every autumn and winter. As the majority of children and adults will have been exposed to the virus in previous seasons, these illnesses are usually mild. However, every 20 to 40 years or so the virus undergoes a dramatic mutation. Usually this occurs when a wild flu virus circulating in ducks and farm poultry meets a pig virus, and they exchange genes.

Cúm là liên tục bao phủ khắp Nam và Bắc Bán Cầu. Ở Bắc Mỹ và châu Âu, bệnh cúm liên tục xảy ra mỗi mùa thu và đông. Khi phần lớn chủ yếu là trẻ em và người lớn đã bị phơi nhiễm từ mùa cúm trước, thì bệnh sẽ không nặng lắm. Tuy nhiên, cứ mỗi 20 hay 40 năm virus có sự đột biến dữ dội. Điều này thường xảy ra khi một virus lây truyền ở vịt và gia cầm tiếp xúc với virus lợn, và biến đổi gene. 

This process is known as antigenic shift and has occurred throughout human history. The first recorded pandemic occurred in 1580. The 18th and 19th centuries saw at least six further pandemics. In terms of mortality, none can compare with the Great Flu Pandemic of 1918. The first indication of the pandemic came in the spring, when American troops in northern France began complaining of chills, headaches and fever. 

Quá trình này gọi là biến đối kháng nguyên và xảy ra xuyên suốt lịch sử loài người. Đại dịch đầu tiên được ghi nhận vào năm 1580. Thế kỷ 18 và 19 chứng kiến ít nhất 6 đại dịch khác. Về mặt tử vong, không gì có thể so sánh được Đại dịch cúm năm 1918. Dấu hiệu đầu tiên của đại dịch xuất hiện vào mùa xuân, khi một đoàn lính Mỹ ở miền Bắc nước Pháp than vãn vì cảm thấy lạnh, đau đầu và sốt. 

Then, the following September, at a U.S, army barracks near Boston, soldiers started collapsing on parade, prompting their removal to the camp infirmary. As a surgeon there recalled, two hours after admission, they had the mahogany spots over the cheekbones and a few hours later you can begin to see the cyanosis extending from their ears and spreading all over the face. It is only a matter of a few hours then until death comes, and it is simply a struggle for air until they suffocate.

Rồi, tháng 9 tiếp đó, trại lính Mỹ ở gần Boston binh lính ngã gục khi đang diễu binh, nên người ta phải đưa họ vào bệnh xá. Như bác sĩ ở đó kể lại, sau 2 giờ được đưa vào, họ nổi những nốt sẫm trên gò má và vài giờ sau đó bạn có thể thấy màu tím bầm lan khắp tai họ và lan ra khắp khuôn mặt. Và chỉ vài tiếng đồng hồ nữa thì cái chết xảy đến, và đơn thuần là họ bị khó thở đến khi chết ngộp. 

On the S.S. Leviathan, a huge American transport en route to Bordeaux, sick men hemorrhaged blood from their noses, turning the decks between their bunks slick with bodily fluids. Meanwhile, British soldiers returning from northern France on furlough introduced the flu to Dover and other Channel ports, from where the virus was carried by rail to London. By the time the pandemic had run its course in April 1919, an estimated 675.000 Americans and 230.000 Britons were dead.

Trên tàu S.S. Leviathan, một tàu cực lớn của Mỹ đi đến Bordeaux, những người bệnh bị xuất huyết từ mũi, biến sàn tàu trong đó phòng bệnh tràn ngập máu. Trong khi đó, binh lính Anh được nghỉ trở về từ miền Bắc nước Pháp đã lây bệnh cúm khắp Dover và các bến cảng Channel, để từ đó virus theo đường xe lửa đến Luân Đôn. Vào thời điểm mà đại dịch kết thúc vào tháng 4, năm 1919, ước tính đã có 675.000 người Mỹ và 230.000 người Anh đã chết. 

In India alone, some 10 million were killed, and worldwide the death toll was an astonishing 50 million. But that was then. Today, planes can transport viruses to any country on the globe in a fraction of the time it took in 1918. In February 2003, for instance, a Chinese doctor arrived at the Metropole Hotel in Hong Kong feeling unwell. Unknown to him, he was harboring a new animal-origin virus called SARS, short for Severe Acute Respiratory Syndrome.

Chỉ riêng Ấn Độ đã khoảng 10 triệu người chết và trên toàn cầu, con số tử vong khủng khiếp đạt tới 50 triệu. Nhưng đã là quá khứ. Ngày nay, máy bay có thể lây truyền virus tới bất kỳ quốc gia nào nhanh hơn nhiều so với hồi năm 1918. Tháng 2 năm 2003 chẳng hạn, một bác sĩ Trung Quốc đến khách sạn Metropole ở Hong Kong cảm thấy không khỏe. Ông không biết rằng mình đang nhiễm một virus đặc biệt mới gọi là SARS, viết tắt của Hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng.

Within 24 hours of checking into Room 913, sixteen other guests had been infected, and over the following days five boarded planes to overseas destinations, spreading the virus to Vietnam, Singapore and Canada. Flights between Hong Kong, Toronto and other international cities were quickly grounded and thanks to other emergency measures, a pandemic was averted. By the time the outbreak was over four months later, SARS had infected 29 countries worldwide and more than 1000 people were dead.

Trong vòng 24 giờ ở lại phòng 913, 16 vị khách khác bị lây nhiễm, và vài ngày tiếp theo, nó lan rộng khắp theo đường hàng không, virus lan tới Việt Nam, Singapore và Canada. Những chuyến bay giữa Hong Kong, Toronto và các thành phố khác nhanh chóng bị đình chỉ và nhờ các phương án khẩn cấp khác đại dịch đã được chặn đứng. Vào thời điểm kết thúc là hơn 4 tháng sau đó, SARS đã lây nhiễm 29 nước trên thế giới và hơn 1000 người chết.

Ảnh: https://kienthuc.net.vn

For all that the virus was rapidly contained, however, there was little that could be done about the alarming news reports carried by cable news channels and the Internet. As bloggers added to the hysteria by spreading unfounded conspiracy theories, tourism in Hong Kong and other affected cities ground to a halt, costing businesses more than 10 billion U.S. dollars. One business, however, did very well. Above all, SARS was a reminder that pandemics have always been associated with panic.

Chỉ có như thế và virus cũng bị chặn đứng nhanh chóng, tuy nhiên khó có thể cứu vãn truyền thông bởi các tin tức báo động lan truyền bởi truyền hình cáp và Internet. Các blogger còn gia tăng hỗn loạn bằng cách lan truyền các thuyết âm mưu du lịch của Hong Kong và các thành phố khác phải đóng cửa thiệt hại kinh tế ước tính hơn 10 tỷ Mỹ Kim. Tuy nhiên, một ngành khác lại lên hương. Trên hết, SARS là lời nhắc nhớ rằng đại dịch luôn đi kèm với khủng hoảng. 

If history teaches us anything, it’s that while pandemics may start small, their impacts can be as dramatic as wars and natural disasters. The difference today is that science gives us the ability to detect pandemics right at the very beginning and to take action to mitigate their impacts before they spread too widely.

Lịch sử đã dạy chúng ta rằng đại dịch có thể bắt đầu rất nhỏ bé nhưng hậu quả không hề thua kém chiến tranh hay thảm họa thiên nhiên. Sự khác biệt ngày nay là khoa học cho ta khả năng để phát hiện đại dịch ngay khi mới hình thành và hành động để giảm bớt tác động của nó trước khi nó lan quá rộng.

***

Người xưa cho rằng, đại dịch xảy ra ở đâu là do con người nơi đó không chú ý đến môi trường sống, mải chạy đua vũ trang, trong xã hội xuất hiện hiện tượng đạo đức xuống cấp trầm trọng. Thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh… được coi như lời cảnh tỉnh của Thần Phật với con người. Tuy nhiên, ngày nay nhiều người không tin vào luật nhân quả, mỗi khi xảy ra sự việc gì thì coi là ngẫu nhiên hoặc không tìm được nguyên nhân sâu xa. Nếu như con người chúng ta đều biết tu tâm dưỡng tính, coi trọng đạo đức thì sẽ tránh được phần nào những tai nạn nói trên.

Hoàng Tuấn (Tổng hợp)