Có câu: “Hùm chết để da, người ta chết để tiếng”, nên phàm là nhân loại, đặc biệt là bậc đại nhân cai trị thiên hạ đều sẽ lưu lại danh tiếng của mình khi mất đi. Có một thời khắc đặc biệt nhất, tuy ngắn ngủi nhưng lại có thể hiển hiện ra hết thảy trí tuệ và công nghiệp của một đời, chính là khoảnh khắc lâm chung. Đó là lúc mà tinh anh cả đời của một vĩ nhân bùng cháy lần cuối cùng, hay sự yếu kém trong nhân cách đều sẽ hiển lộ rất rõ ràng.
Chúng ta hãy cùng xem lại câu chuyện về phút lâm chung của các vĩ nhân đất Việt nhé.
Lý Nhân Tông: “Chết là số lớn của trời đất và lẽ đương nhiên của mọi vật”
Lý Nhân Tông ở ngôi 56 năm, thọ sáu 62 tuổi, là vị vua trị vì lâu nhất trong lịch sử Việt Nam. Giống với thụy hiệu chữ “Nhân” của mình, Lý Nhân Tông quả thực là một bậc thánh quân dùng lòng Nhân mà cai trị thiên hạ. Điều này thể hiện rõ qua di chiếu của ông trước khi qua đời. Xin trích hai đoạn sau đây:
“… Trẫm nghe, phàm các loài sinh vật, không loài nào là không chết. Chết là số lớn của trời đất và lẽ đương nhiên của mọi vật. Thế nhưng người đời mấy ai không thích sống mà thích chết. Chôn cất hậu làm mất cơ nghiệp, để tang lâu làm tổn tính mệnh, trẫm không cho thế là phải. Trẫm ít đức, không lấy gì làm cho trăm họ được yên, đến khi chết đi lại khiến cho thứ dân mặc áo xô gai, sớm tối khóc lóc, giảm ăn uống, bỏ cúng tế… làm cho lỗi ta thêm nặng, thiên hạ sẽ bảo ta là người thế nào? Trẫm xót phận tuổi thơ phải nối ngôi báu, ở trên các vương hầu, lúc nào cũng nghiêm kính sợ hãi. Đã năm mươi sáu năm nay, nhờ anh linh của tổ tông, được hoàng thiên phù hộ, bốn biển yên lành, biên thùy ít biến, chết mà được xếp sau các bậc tiên quân là may rồi, còn phải thương khóc làm gì?”.
“… Việc tang thì chỉ ba ngày là bỏ áo trở, nên thôi thương khóc. Việc chôn thì nên theo Hán Văn Đế, cốt phải kiệm ước, không xây lăng mộ riêng, nên để ta hầu bên cạnh tiên đế. Than ôi! Mặt trời đã xế, tấc bóng khó dừng, từ giã cõi đời, nghìn thu vĩnh quyết. Các ngươi nên thực lòng kính nghe lời trẫm, bảo rõ cho các vương công, bày tỏ cho hết trong ngoài…”
Lời bàn:
Đại Việt thời Lý là quốc gia Phật Giáo, Lý Nhân Tông cũng sùng Phật nên rất chú ý tu dưỡng tâm thân của mình khi trị quốc. Ông cai trị nhân dân anh minh mà nhân từ, thương dân như con. Quốc gia nhờ đó mà phúc trạch sâu dày, dẫu trải qua nhiều cuộc chiến mà vẫn vẹn nguyên, ngày càng giàu mạnh. Ấy vậy mà bậc vĩ nhân nhường ấy lại không cần làm tang lễ xa hoa, cũng không cần xây lăng mộ hoành tráng. Tấm lòng vĩ đại và công nghiệp cống hiến một đời đã khiến ông trở thành một phần bất diệt của lịch sử dân tộc suốt nghìn năm qua.
Ông đến với hai bàn tay trắng “không” có gì, nên phải chăng cũng cần ra đi “ không” có gì, để có thể không vướng bận gì mà nhập vào cái “Không” tuyệt đối của vũ trụ bao la kia chăng.
Trần Hưng Đạo: “Vả lại, phải khoan sức dân làm kế rễ sâu gốc vững, ấy mới là thượng sách, không có gì hơn được”
Tháng 8 năm Canh Tý (1300), Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn qua đời, hưởng thọ 70 tuổi. Ông là nhà chính trị xuất sắc, nhà quân sự thiên tài và là nhà văn hóa lớn của dân tộc. Tên tuổi và sự nghiệp của ông mãi mãi sáng ngời với sử sách. Trước phút lâm chung, ông còn để lại cho hậu thế những lời vàng ngọc, được sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục trân trọng ghi lại như sau :
“Trước đây, Quốc Tuấn bị bệnh, nhà vua (đây chỉ Trần Anh Tông) thân đến nhà riêng thăm viếng và hỏi rằng:
– Nếu có sự không lành xảy ra (ý nói lỡ Trần Quốc Tuấn qua đời) mà quân Nguyên lại sang xâm lấn thì chống cự bằng cách gì?
Quốc Tuấn thưa:
– Ngày trước Triệu Võ (Triệu Đà) dựng nước, Vua nhà Hán sai quân sang đánh, bấy giờ, dân thì phá hết hoa màu ở đồng nội, quân thì kéo sang, dùng đoản binh tập hậu mà đánh phá châu Khâm, châu Liêm và châu Trường Sa. Đó là một thời kỳ.
Đến đời nhà Đinh, nhà Lê thì dùng người hiền tài. Lúc ấy phương Nam đang mạnh, phương Bắc đang suy, trên dưới một dạ, dân không có lòng ly tán, đắp thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại cũng là một thời kỳ. Nhà Lý dựng cơ nghiệp, người nhà Tống sang xâm lấn. Lúc ấy, dùng Lý Thường Kiệt đánh châu Khâm, châu Liêm, nhiều phen đánh đến tận Mai Lĩnh, ấy là có thế lực mạnh.
Vừa rồi, Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt đánh phá bao vây. Lúc ấy, vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước ra sức nên giặc phải chịu bó tay. Đấy là lòng trời xui khiến.
Quân giặc cậy vào trường trận, ta cậy ở đoản binh, đem đoản binh chống trường trận là việc thường trong binh pháp.
Nhưng cần phải cân nhắc cho kỹ, giá thử quân giặc tràn sang như gió như lửa thì có thể chống cự được, nếu giặc dùng cách chiếm cứ dần như tằm ăn dâu, không vơ vét của dân, không mong đánh được ngay thì mình phải dùng tướng giỏi, xem tình thế biến chuyển như người đánh cờ, tùy cơ mà ứng biến cho đúng, làm thế nào thu hút được binh lính như cha con một nhà thì mới có thể chiến thắng được. Vả lại, phải khoan sức dân làm kế rễ sâu gốc vững, ấy mới là thượng sách, không có gì hơn được.
Vua phục lời trình bày của Quốc Tuấn là đúng”.
Lời bàn:
Người ta thường hay ca tụng chiến công thần thánh của nhà Trần như là kết quả của sự lãnh đạo sáng suốt và sự tinh nhuệ của tướng lãnh và quân đội nhà Trần. Nhưng thực ra, để có được kết quả đó còn rất nhiều yếu tố quan trọng to lớn hơn mà người ta không biết hay cố tình không nói đến. Đó là sự bảo hộ của Thần Phật, dành cho các quốc gia có nhiều người chính tín chính Pháp khỏi họa xâm lăng, một quốc gia mà từ vua đến dân đều chỉ muốn đi tu. Đó là người cai trị từ trên xuống dưới lấy mình làm gương, thi hành chính trị sáng suốt nên lòng dân gắn kết không lìa. Đó là bậc đại tướng cầm quân như Hưng Đạo Vương luôn giữ thành ý chính tâm khi trị quân cũng như thờ vua khiến cho trên dưới dốc lòng hết sức mà phá giặc mạnh.
Trần Hưng Đạo được nhân dân phong Thánh không phải chỉ vì chiến công của ngài mà chính là vì tấm lòng to lớn của ngài, đạo đức cả đời và sự thủy chung với quốc gia và nhân dân chưa bao giờ nhạt đi kể cả lúc cuối đời.
Trần Minh Tông: “Người đời bao nhiêu khổ não, nay thoát được nỗi khổ não này thì mai lại gặp nỗi khổ não khác mà thôi”
Là quân chủ trị vì lâu nhất của nhà Trần, Trần Minh Tông nổi tiếng với trí tuệ và năng lực trị quốc. Ngay cả đến khi gần đất xa trời, trí tuệ của ông vẫn bừng sáng như mọi khi và để lại nhiều giai thoại thú vị.
Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ quyển 7, tờ 20 a-b và tờ 21 a) chép rằng :
“Khi se mình (không được khỏe, bị bệnh), triều đình muốn lập đàn chay cầu đảo.
Minh Tông nghe biết chuyện, bèn gọi Hữu tướng quốc là (Trần) Phủ vào tận giường nằm để hỏi.
Vua (đây chỉ Trần Dụ Tông) sợ, lập tức sai Phủ tâu rằng, Phạm Ứng Mộng xướng nghị việc tự xin lấy mình chết thay cho Thượng hoàng.
(Trần) Phủ vừa tâu lên thì Thượng hoàng nói :
– Ứng Mộng tự nhận làm địa vị của Chu Công thì cứ lấy thân mình mà chết thay cho cha hắn, còn đàn chay thì không được làm.
Bấy giờ, Hiến Từ Thái hậu phóng sinh các giống súc vật để cầu cho Minh Tông khỏe lại. Minh Tông bảo bà :
– Thân ta không thể lấy con heo, con dê mà đổi được.
Khi bệnh đã trầm trọng, bèn cho gọi bọn thầy thuốc là Trâu Canh, Vương Định, Phạm Thế Thường vào coi mạch.
(Trâu) Canh nói là mạch phiền muộn. Minh Tông liền ứng khẩu đọc một bài thơ cho bọn Trâu Canh nghe:
– Coi mạch nói chi những chuyện phiền,
Trâu Canh nên hãy hốt thuốc tiên.
Chuyện buồn nếu kể hoài không dứt
Chẳng hóa rước thêm nỗi muộn phiền.
Lúc ấy, bởi Trâu Canh thường ra vào cung cấm, vẫn hay dùng những câu khác đời, những lời quỷ quyệt, cốt để huyễn hoặc Trần Dụ Tông nên Trần Minh Tông ghét lắm, bèn mượn bài thơ để châm biếm hắn.
Khi thuốc dâng lên, Minh Tông nói :
– Người đời bao nhiêu khổ não, nay thoát được nỗi khổ não này thì mai lại gặp nỗi khổ não khác mà thôi.
Nói rồi, không chịu uống thuốc. Lúc bệnh đã quá nguy kịch, gọi quan hoạn là Nguyễn Dân Vọng đem bản thảo tập thơ ngự chế đốt đi.
Dân Vọng còn do dự thì Minh Tông nói :
– Vật đáng tiếc hơn còn không thể giữ được, giữ gì thứ ấy.
Các Hoàng tử cùng đứng hầu cạnh, chờ nghe lời dạy cuối cùng. (Minh Tông) liền nói với họ :
– Các con cứ xem việc làm của người xưa, việc hay thì theo, việc dở thì lánh, cần gì phải nghe ta nói”.
Lời bàn:
Chữ “Minh” gồm có bộ Nhật và Nguyệt ghép thành, hai loại ánh sáng sáng nhất trên đời và luôn được xem như nguồn sống của nhân loại. Cũng là nguồn sáng tạo nguồn cảm hứng nghiên cứu và sáng tác thi văn học thuật của các triết gia và thi nhân. Có lẽ vì thế mà hành trạng suốt đời trị vì hơn 40 năm của Trần Minh Tông đã để lại nhiều bài học cho hậu thế. Đến lúc sắp mất, những lời lẽ và suy luận của ông lại càng sâu sắc và rất giống với những cảm ngộ của một người đạt Đạo, phải chăng đó cũng là lúc ông sáng bừng lên một lần cuối nhằm lưu lại ánh sáng trí tuệ cho đời sau?
Tô Hiến Thành: “Bệ hạ hỏi ai có thể thay thần nên thần mới nói đến Trung Tá, còn nếu như Bệ hạ hỏi người hầu hạ phụng dưỡng, thì phi Tán Đường ra, còn ai nữa”
Tô Hiến Thành mất vào tháng 6 năm Kỷ Hợi (1179) sau nhiều năm làm rường cột chống đỡ nước nhà. Đây là một mối nguy và sự tổn thất lớn cho sự ổn định của xã tắc khi vua Lý Cao Tông mới tám tuổi chưa thể cầm quyền. Chiêu Linh Thái hậu lúc nào cũng lăm le lật đổ vua để thay bằng đứa con trai Long Xưởng vô đạo của bà ta.
Bà Đỗ Thái hậu (tức bà Thụy Châu Thái hậu, mẹ đẻ của vua Lý Cao Tông) dĩ nhiên rất lo lắng khi Tô Hiến Thành lâm bệnh nên đã đến thăm hỏi ông về kế sách lâu dài.
Sách Đại Việt sử lược (quyển 3, tờ 10 – a) chép lại như sau:
“Trước đây, khi Hiến Thành ở trên giường bệnh, chỉ có quan Tham tri chính sự là Vũ Tán Đường ngày đêm hầu hạ ở bên cạnh, quan Gián nghị đại phu là Trần Trung Tá vì nhiều công việc bận, không có thời giờ rảnh rỗi tới thăm Hiến Thành được. Khi bệnh tình đã thành nguy kịch, Bà Thái hậu (đây chỉ Đỗ Thái hậu – ND) tới thăm và hỏi Hiến Thành rằng:
– Nếu có mệnh hệ nào thì ai thay ông được?
Hiến Thành đáp:
– Người mà bình nhật thần biết chỉ có Trung Tá mà thôi.
Thái hậu nói:
– Tán Đường ngày ngày hầu hạ thuốc thang cho ông, ông không nói tới là làm sao?
Hiến Thành đáp:
– Bệ hạ hỏi ai có thể thay thần nên thần mới nói đến Trung Tá, còn nếu như Bệ hạ hỏi người hầu hạ phụng dưỡng, thì phi Tán Đường ra, còn ai nữa.
Thái hậu tuy khen Hiến Thành là trung, nhưng rồi cũng không nghe lời ông, Lấy Đỗ An Thuận (các sách khác chép là Đỗ An Di, có lẽ do Di và Thuận mặt chữ Hán gần giống nhau nên chép lầm. Đỗ An Thuận là em ruột của Đỗ Thái hậu – ND) trông coi việc triều chính”.
Xin nói thêm: Tô Hiến Thành mất, Vua bãi chầu 7 ngày, ăn chay 3 ngày để tỏ rõ sự đặc biệt kính trọng.
Lời bàn:
Lời nói lúc lâm chung thể hiện hành trạng của cả một đời người. Có người chỉ lo cho con cháu, có người lo về của cải, lại có người thần trí bất minh mà trở nên hoảng loạn. Mấy mươi năm nắm đại quyền, chống đỡ triều đình trước biết bao cơn sóng dữ, công nghiệp ấy to lớn và mệt nhọc biết bao. Người ta thường vì cái tình chăm sóc lúc bệnh hoạn mà làm ảnh hưởng đến việc công, mấy ai như Tô Hiến Thành đến lúc lâm chung vẫn vô tư một lòng vì quốc gia. Có lẽ Vũ Tán Đường hầu hạ chăm sóc ông cũng vì cảm phục đức sáng vô tư của ông hay chăng?
Mạc Ngọc Liễn: “Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng”
Mạc Ngọc Liễn nguyên có tên là Nguyễn Ngọc Liễn (阮玉璉), là con của Thái sư Tây quốc công Nguyễn Kính – công thần khai quốc nhà Mạc. Do cha con Nguyễn Kính có công lao lớn với nhà Mạc nên anh em Ngọc Liễn thảy ba người đều được ban họ vua. Mạc Ngọc Liễn đồng thời còn là phò mã nhà Mạc, tức hôn phu của công chúa Mạc Thị Ngọc Lâm.
Ông không phải là nhân vật quá nổi bật trong lịch sử Việt Nam, nhưng giai thoại của ông để lại cho chúng ta rất nhiều suy ngẫm:
Tháng 7 năm 1594, Mạc Ngọc Liễn ốm nặng, khi sắp mất ông để thư lại dặn vua Mạc Kính Cung như sau:
“Nay khí vận nhà Mạc đã hết, họ Lê lại trung hưng, đó là số trời. Dân ta là người vô tội mà khiến để phải mắc nạn binh đao, ai nỡ lòng nào! Chúng ta nên lánh ra ở nước khác, nuôi dưỡng uy lực, chịu khuất đợi thời, chờ khi nào mệnh trời trở lại mới làm được, chứ không thể lấy lực chọi với lực. Khi hai con hổ tranh nhau, tất phải có một con bị thương, không có ích gì cho công việc. Nếu thấy quân họ đến đây thì chúng ta nên tránh đi, chớ có đánh nhau với họ, cốt phòng thủ cẩn thận là chính; lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng”.
Ông mất ngày 2 tháng 7 âm lịch năm đó. Sau khi ông qua đời, con ông là phò mã Đông Sơn hầu chạy sang Long châu, theo Mạc Kính Cung tiếp tục chống chính quyền Lê-Trịnh. Mạc Kính Cung và các vua Mạc sau tiếp tục làm theo lời dặn của ông, tranh thủ sự ủng hộ của nhà Minh để cát cứ ở đất Cao Bằng nhưng tuyệt nhiên không mượn quân Minh sang đánh nhà Hậu Lê.
Lời bàn:
Thói thường con người ta lúc sa cơ lỡ vận là lúc hay làm điều hèn hạ và khuất tất không từ mọi thủ đoạn. Nhưng tất cả vua nhà Mạc và Mạc Ngọc Liễn trong lúc mạt vận cho dù vẫn luôn chống nhà Lê nhưng không bao giờ cầu ngoại bang về giúp mình giành ngôi báu. Lời của Mạc Ngọc Liễn để lại không nhiều, nhưng tấm lòng vì dân vì nước của ông lại sẽ sáng rọi khắp sử sách nước nhà.
Nhà Mạc tuy trị vì hơn 60 năm ở Thăng Long với 5 đời vua chính thống, nhưng sau khi mất mấy trăm năm vẫn không rửa nổi mối oan bị xem là bán nước, hèn nhát. Khoan nói chuyện đúng sai, chỉ riêng việc cầu quân ngoại viện thì nhà Lê – người chiến thắng họ Mạc – đã làm hết vài lần, nhà Nguyễn cũng hai lần mà vẫn còn được xem là chính thống? Hay là giá trị quan của chúng ta về lòng yêu nước thương dân đã có phần sai lệch mà chúng ta không ý thức được chăng?
Tĩnh Thuỷ