Vua Ngu Thuấn là một trong năm vị Hoàng đế thời thượng cổ của Trung Hoa. Ông họ Diêu, tên là Trọng Hoa, tên hiệu là Thuấn, người tỉnh Hồ Bắc. Cha của ông khi còn sống là người không phân biệt phải trái đúng sai, ngoan cố không theo đạo lý, nên về sau bị mù hai mắt. Bởi vậy mà người đời vẫn gọi cha ông là Cổ Tẩu (ông già mù).
Mẹ của Thuấn mất sớm nên cha ông lấy vợ hai. Mẹ kế của ông là người phụ nữ cay độc hiểm ác, nói lời không thật lòng. Sau này cha và mẹ kế của ông sinh được một người con trai, đặt tên là Tượng. Người con này từ nhỏ đến lớn đều ngang bướng, tính nết ngông cuồng.
Người mẹ kế này yêu quý con ruột của mình hơn con riêng của chồng nên đối đãi với Thuấn như kẻ thù. Bà thường xuyên nói xấu con riêng của chồng, dùng lời kích động để cha của Thuấn thù ghét con trai mình. Vì vậy, ba người trong gia đình họ ai cũng có ý tưởng sát hại ông.
Nhưng Thuấn lại có thiên tính vô cùng hiếu thuận, nhân hậu. Ông đối với cha mẹ thì vô cùng hiếu kính, tận lễ, giữ đúng đạo làm con, không một chút lười biếng. Ông đối với bạn bè cũng vô cùng nhân từ, hết lòng.
Bởi vì Thuấn dường như không có khuyết điểm, cho nên, mặc dù muốn sát hại Thuấn nhưng cả nhà họ đều không tìm được ra lý do, không tìm được ra cách thức. Thuấn luôn nghĩ rằng, chỉ cần được ở bên cạnh cha mẹ để phụng dưỡng họ, tận hiếu với họ là đã thỏa mãn trong lòng. Mỗi khi cha mẹ hay em trai có việc gì cần giúp đỡ, Thuấn đều hết lòng giúp. Những lúc bị người nhà hãm hại Thuấn đều trốn chạy. Chỉ cần có chút biến chuyển, Thuấn lập tức trở về bên họ, dốc lòng trợ giúp.
Năm 20 tuổi, lòng hiếu thảo của Ngu Thuấn đã được người dân truyền tụng khắp mọi nơi. Năm Ngu Thuấn 30 tuổi đang là lúc vua Nghiêu đi khắp thiên hạ tìm người tài đức để cho kế vị. Quần thần ở khắp nơi đều đề đạt Thuấn với vua Nghiêu. Vua Nghiêu liền đến nhà của Thuấn, đồng thời ông còn dẫn hai người con gái của mình theo để gả làm vợ Thuấn, cũng là muốn thăm dò phẩm đức, cách xử thế và tài cán của Thuấn.
Sau khi kết hôn, ông sinh sống tại Quy Nhuế (dưới chân núi Thủ Dương, huyện Vĩnh Tế, Sơn Tây). Mỗi hành vi của ông đều khoan dung độ lượng, nhân hậu. Vì vậy, hai người con gái của vua Nghiêu không cậy mình là công chúa mà xem thường ông cùng người nhà của ông. Ngược lại, họ đều một lòng một dạ làm tròn đạo làm vợ.
Thuấn đối xử với tất cả mọi người đều khiêm tốn, hòa nhã, làm việc chuyên cần. Ông đi đến bất cứ nơi nào đều được dân chúng hoan nghênh, ủng hộ. Thời còn cày ruộng ở Lịch Sơn, Ngu Thuấn thường nhường cho người khác những mảnh đất phì nhiêu màu mỡ vì ông coi trọng sự nhường nhịn và nhân nghĩa. Cảm động trước tấm lòng của ông, trong vòng sáu tháng, những người nông dân ở đó đã nhận những mảnh đất cằn cỗi và cũng nhường cho người khác những mảnh đất màu mỡ.
Lúc bắt cá ở Lôi Trạch, Ngu Thuấn thường nhường cho người khác những nơi có nhiều cá vì thế mà người dân cũng theo đó nhường cho nhau, không tranh giành. Người dân Lôi Trạch ai ai cũng nguyện ý muốn nhường nhà cho ông ở.
Lúc làm gốm ở Hà Tân, ông không chỉ chú trọng chế tạo đồ gốm có chất lượng tốt mà còn thường giảng đạo lý cho mọi người để giải quyết những vụ việc tranh giành. Những người dân ở đây đều nguyện ý cùng ông hợp tác. Bởi vì chất lượng gốm tốt, không thô, không có khuyết điểm mà lại tinh tế nên mọi người đều muốn làm việc với ông. Phàm là ông đến ở nơi nào thì đều có ảnh hưởng tốt đến người dân ở nơi đó.
Người dân thấy Ngu Thuấn sinh sống ở đâu đều muốn đến ở cùng ông, đến mức ban đầu nơi ông ở chỉ có một vài hộ dân, sau một năm là thành một làng, hai năm là thành một thị trấn, ba năm thì liền trở thành một thành phố.
Biết được những điều này, vua Nghiêu đã ban cho Ngu Thuấn một bộ quần áo bằng sợi gai, một cổ cầm, xây dựng cho Thuấn một nhà kho, cấp cho bò và dê. Mặc dù vậy nhưng cha đẻ và mẹ kế của ông vẫn muốn sát hại ông.
Một lần cha đẻ và mẹ kế đã sai ông sửa chữa kho thóc, khi Thuấn dùng thang trèo lên nóc, người cha đã đốt lửa ở dưới, muốn thiêu chết Thuấn. Thuấn ở trên mái, thấy lửa cháy, tìm thang để xuống, nhưng không thấy thang đâu. Rất may Thuấn có mang theo hai cái nón để che nắng, ông hai tay cầm hai cái nón, giống như chim hạ cánh xuống. Cái nón được gió đỡ nhẹ nhàng, Thuấn từ từ rơi xuống đất, không bị xây xát gì.
Người cha và Tượng vẫn không cam chịu. Họ lại bảo Thuấn đi đào giếng. Khi Thuấn ở dưới đáy giếng, người cha và Tượng ở trên ném đất đá xuống, định lấp đầy giếng để chôn luôn Thuấn ở dưới. Không ngờ, Thuấn ở dưới giếng đã nhanh trí đào một cái hầm chui vào, lại an toàn trở về nhà. Nhờ vậy mà Thuấn lại thoát được kiếp nạn này.
Vua Nghiêu nhận thấy Thuấn cho dù là ở nhà hay xử thế bên ngoài đều xác thực là một vị hiền tài nên vô cùng xem trọng ông. Vì vậy, năm Thuấn 50 tuổi, vua Nghiêu đã cho phép Thuấn thay mình xử lý các việc quốc gia đại sự.
Quả nhiên sau khi Thuấn thay vua Nghiêu hành sự, thiên hạ thái bình, dân chúng bốn phương đều ủng hộ ông. Đến năm ông 61 tuổi thì được vua Nghiêu truyền lại ngôi. Sau khi lên ngôi, ông trở về quê hương thăm cha mẹ, họ hàng. Ông vẫn một lòng cung kính, hiếu thuận như xưa. Cha đẻ và mẹ kế cùng với mọi người trong nhà đều bị ông cảm hóa. Vua Thuấn trị vì đất nước trong 39 năm, ông hưởng thọ 110 tuổi.
Vua Thuấn là thủy tổ của văn hóa đạo đức Trung Hoa. Ông giáo hóa cho mọi người cái đạo nhân luân: Phụ tử hữu thân (cha con có tình nghĩa), quân thần hữu nghĩa (vua, tôi có nghĩa, vua hiền tôi trung), phu phụ hữu biệt (vợ chồng có phân biệt, chồng có nghĩa, vợ vâng phục), trưởng ấu hữu tự (lớn nhỏ có thứ tự), bằng hữu hữu tín (bạn bè có thành tín). (Trích: Mạnh Tử. Dắng văn công thượng).
Ông khởi xướng văn hóa truyền thống, luân lý đạo đức và nó đã trở thành tinh hoa của văn hóa dân tộc Trung Hoa. Mặc dù trải qua 5000 năm với bao thăng trầm, đặc biệt là có những giai đoạn văn hóa truyền thống bị phá hoại nhưng tinh hoa ấy vẫn sống mãi trong lòng người dân Trung Hoa, thậm chí còn tỏa ánh hào quang chiếu rọi, soi sáng cho dân tộc này.
Theo Đại Kỷ Nguyên Tiếng Trung
Mai Trà biên dịch
Xem thêm: