Quý Tiện Lâm, nhà ngôn ngữ học Trung Quốc, nhà phiên dịch văn học, chuyên gia tiếng Phạn và tiếng Pali đã từng nói: Học thuộc 148 câu thơ cổ này, bạn có thể đề cao tầng thứ, không chỉ về phương diện văn học. Đối với những nhà thư pháp gia mà nói, học thuộc những bài thơ từ này, khai bút sẽ có thể dễ dàng trôi chảy rồi.

Đại Kỷ Nguyên xin giới thiệu với quý độc giả những câu cổ thi nổi tiếng trong kho tàng văn hoá truyền thống phương Đông, ngõ hầu khơi gợi lại phong vị cổ kính thanh tao dường như đều có trong sâu thẳm mỗi người. Trải qua mưa gió cuộc đời, chúng tôi tin rằng khi đọc những câu thơ cổ này, quý độc giả sẽ có nhiều chiêm nghiệm.

  • Tiếp theo kỳ:  1   2   3   4   5   6   7

91.大凡物不得其平則鳴。(唐韓愈送孟東野序)

“Đại phàm vật bất đắc kỳ bình tắc minh”

(Đường Hàn Dũ – Tống Mạnh Đông Dã tự).

Dịch nghĩa: Mọi vật hễ không được cái thế quân bình thì kêu lên (Hàn Dũ – Bài tựa “Tiễn Mạnh Đông Dã”).

Hàn Dũ, tự Thoái Chi, là một nhà văn chương nổi tiếng thời nhà Đường. Ông chủ trương “Văn dĩ tải Đạo”, được người đời sau ca ngợi là “tản văn Thánh thủ”, có công đầu trong phong trào phục cổ đời Đường. 24 tuổi đã đỗ Tiến sĩ, ông từng làm đến chức Binh bộ Thị lang.

Mạnh Giao, tự Đông Dã, cũng là một nhà thơ nổi tiếng thời Đường. Ông đi thi nhiều lần không đỗ, mãi đến năm 46 tuổi mới đỗ Tiến sĩ và đến năm 50 tuổi mới được bổ làm huyện uý Lật Dương (tỉnh Giang Tô), một chức quan nhỏ mà ông chẳng màng tha thiết.

Hàn Dũ viết bài tựa “Tiễn Mạnh Đông Dã” để an ủi Mạnh Giao (Trong bài có câu: “Vận mệnh của ba ông ấy là do Trời; vậy thì ở ngôi cao, có gì vui? Ở ngôi thấp có chi buồn?”) và khuyên bạn nên dùng âm thanh vui vẻ mà “minh” sự thịnh vượng của quốc gia [1].

92.蚍蜉撼大樹,可笑不自量。(唐韓愈調張籍)

“Tì phù hám đại thụ

Khả tiếu bất tự lường”.

(Đường Hàn Dũ – Điều Trương Tịch)

Dịch nghĩa:

Thân con kiến mà đòi rung cây lớn,

Thật nực cười không biết tự lượng sức mình.

93.業精於勤荒於嬉,行成於思而毀於隨。(唐韓愈進學解)

“Nghiệp tinh ư cần hoang ư hy, hạnh thành ư tư nhi huỷ ư tuỳ” (Đường Hàn Dũ – Tiến học giải).

Dịch nghĩa: Nghiệp học tinh thông nhờ chuyên cần, dở dang do qua loa hời hợt, đức hạnh thành tựu nhờ suy nghĩ sâu xa, đức hạnh bị huỷ hoại do cẩu thả tuỳ tiện.

Đức hạnh thành tựu nhờ suy nghĩ sâu xa, đức hạnh bị huỷ hoại do cẩu thả tuỳ tiện. (Ảnh: sohu.com)

94.晴空一鶴排雲上,便引詩情到碧霄。(唐劉禹錫秋詞)

“Tình không nhất hạc bài vân thượng,

Tiện dẫn thi tình đáo bích tiêu”.

(Đường Lưu Vũ Tích – Thu từ)

Dịch nghĩa:

Trên không trung tạnh ráo, một cánh hạc bay vút lên tầng mây,

Thế là đưa thi hứng lên tới trời xanh.

Lưu Vũ Tích, tự Mộng Đắc là một thi hào nổi tiếng thời Đường. Ông đỗ Tiến sĩ năm Trinh Nguyên thứ 9 (793), làm giám sát ngự sử đời Đức Tông. Thời Thuận Tông cùng tham dự vào những chủ trương chính trị tiến bộ cùng Vương Thúc Vân, Liễu Tông Nguyên, sau Vương Thúc Văn bị bọn cường quyền gièm pha, ông cũng bị biếm làm tư mã Lãng Châu. Lưu Vũ Tích làm bài “Thu từ” trong chính khoảng thời gian này (805 – 814) [2].

95.沉舟側畔千帆過,病樹前頭萬木春。(唐劉禹錫酬樂天揚州初逢度上見贈)

“Trầm chu trắc bạn thiên phàm quá,

Bệnh thụ tiền đầu vạn mộc xuân”.

(Đường Lưu Vũ Tích – Thù Lạc Thiên Dương Châu sơ phùng độ thượng kiến tặng)

Dịch nghĩa:

Bên chiếc thuyền chìm vẫn có cả ngàn cánh buồm qua lại,

Phía trước cây bị bệnh vẫn có hàng vạn cây xanh tốt.

(Lưu Vũ Tích – Xem xong viết tặng lại Lạc Thiên trong cuộc gặp ngắn tại Dương Châu).

Lạc Thiên là tự của Bạch Cư Dị, một trong ba đại thi hào đời Đường, là bạn thơ và cũng là bạn đồng liêu thân thiết của Lưu Vũ Tích. Năm 826, Lưu và Bạch trên đường đến nhiệm sở mới, tình cờ gặp nhau tại Dương Châu (nay thuộc tỉnh Giang Tô). Bạch làm thơ tặng trước, Lưu tặng lại bài này đáp lễ [3].

Bên chiếc thuyền chìm vẫn có cả ngàn cánh buồm qua lại, phía trước cây bị bệnh vẫn có hàng vạn cây xanh tốt. (Ảnh: sohu.com)

96.千淘萬漉雖辛苦,吹盡狂沙始到金。(唐劉禹錫浪淘沙)

“Thiên đào vạn lộc tuy tân khổ,

Xuy tận cuồng sa thủy đáo kim”.

(Đường Lưu Vũ Tích – Lãng đào sa)

Dịch nghĩa:

Trải qua nghìn vạn lần đãi lọc đầy gian khổ,

Thổi hết cát đi là bắt đầu thấy vàng ròng.

(Lưu Vũ Tích – Sóng cuốn cát đi)

Hai câu thơ trên gợi mở về hành trình gian khổ để thành tựu sinh mệnh. Một người bình thường muốn đạt đến cảnh giới tinh thần cao thượng hoặc tài năng xuất chúng, cần trải qua hàng nghìn hàng vạn khó khăn, khảo nghiệm nghiêm khắc, giống như quá trình sóng lớn cuốn cát đi, còn lại chính là vàng ròng. Quá trình này hết sức thống khổ, đòi hỏi ý chí kiên định phi thường. Có lẽ vì thế mà trong bài thơ “Mai hoa thi”, Thiệu Ung, học giả thời Bắc Tống than rằng: “Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai, Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai?” (Từ vạn cổ cổng trời khai mở, Mấy người đến mấy người trở về?).

97.山不在高,有仙則名;水不在深,有龍則靈。(唐劉禹錫陋室銘)

“Sơn bất tại cao, hữu Tiên tắc danh

Thuỷ bất tại thâm, hữu long tắc linh”.

(Đường Lưu Vũ Tích – Lậu thất minh)

Dịch nghĩa:

Núi không tại cao, có Tiên thì nổi danh

Nước không tại sâu, có rồng thì hoá linh.

Đây là hai câu thơ mở đầu trong “Bài minh về căn nhà quê mùa” của Lưu Vũ Tích. Nhà thơ mượn chuyện núi cao, nước sâu mà nói về con người, về tâm cảnh an nhiên tự tại của bản thân: “Ðây là căn nhà quê mùa, chỉ nhờ đức ta mà thơm tho. Ngấn rêu biếc leo thềm, sắc cỏ xanh chiếu rèm…” [4]

Núi không tại cao, có Tiên thì nổi danh, nước không tại sâu, có rồng thì hoá linh. (Ảnh: pikbest.com)

98.談笑有鴻儒,往來無白丁。可以調素琴,閱金經。(唐劉禹錫陋室銘)

“Ðàm tiếu hữu hồng nho, vãng lai vô bạch đinh.

Khả dĩ điều tố cầm, duyệt Kim kinh”.

(Đường Lưu Vũ Tích – Lậu thất minh)

Dịch nghĩa:

Cười nói có đại nho, đi lại không bạch đinh [5]

Có thể gảy cây đàn mộc mạc, đọc Kim kinh [6].

(Lưu Vũ Tích – Bài minh về căn nhà quê mùa) [7]

99.同是天涯淪落人,相逢何必曾相識。(唐白居易琵琶行)

“Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân,

Tương phùng hà tất tằng tương thức”.

(Đường Bạch Cư Dị – Tỳ bà hành)

Dịch nghĩa:

Cùng là kẻ luân lạc ở chốn chân trời

Gặp gỡ nhau đây hà tất đã từng quen biết.

Bản dịch thơ của Phan Huy Thực:

“Cùng một lứa bên trời lận đận,

Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau”.

Bạch Cư Dị, tự Lạc Thiên là nhà thơ nổi tiếng thời nhà Đường. Ông là một trong những nhà thơ hàng đầu của lịch sử thi ca Trung Quốc, chỉ xếp sau Lý Bạch và Đỗ Phủ. “Tỳ bà hành” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Bạch Cư Dị. Dưới đây là lời tự của bài thơ:

“Năm Nguyên Hoà thứ 10, ta về giữ chức Tư Mã ở quận Cửu Giang. Qua mùa thu năm sau, đêm ra tiễn khách bên bến sông Bồn, chợt nghe thuyền ai có tiếng đàn tỳ bà vọng lại. Nghe trong tiếng đàn thánh thót, âm vang điệu nhạc ở kinh đô. Bèn hỏi gốc gác. Người đàn bà trả lời rằng: “Tôi vốn là con hát, quê ở Trường An, học đàn tỳ bà với hai danh sư Mục và Tào. Nay tuổi đã cao, nhan sắc tàn tạ, lấy chồng làm con buôn (thường theo thuyền buôn đi đây đi đó)”. Nghe vậy, cho dọn rượu ra đãi, xin nàng đàn lại cho nghe. Đàn xong cảm xúc vô vàn, nàng bèn kể lại cuộc đời mình từ lúc còn trẻ, vui sướng, cho tới lúc lưu lạc giang hồ khổ nhọc. Ta về đây làm quan đã được hai năm thanh thản yên ổn. Hôm nay nghe nàng này nói chuyện, cảm thương cho số phận lưu đày! Bèn làm một bài thơ dài tặng nàng ta, gồm 616 lời, gọi là Tỳ bà hành” [8].

100.在天願作比翼鳥,在地願為連理枝。(唐白居易長恨歌)

“Tại thiên nguyệt tác tỷ dực điểu

Tại địa nguyện vi liên lý chi”.

(Đường Bạch Cư Dị – Trường hận ca)

Dịch nghĩa:

“Ở trên trời nguyện làm chim liền cánh,

Ở dưới đất nguyện làm cây liền cành”.

“Trường hận ca” là một bài thơ rất nổi tiếng của Bạch Cư Dị kể về mối tình giữa Đường Minh Hoàng và Dương Quý phi. Tác phẩm đã đưa vẻ đẹp của Dương Quý phi cũng như mối tình nồng thắm với kết cục thương đau của hai người trở thành bất tử.

Theo Soundofhope.org

Như Ý biên dịch và chú giải

Chú thích:

[1] Tham khảo “Đường, Tống bát đại gia”, Nguyễn Hiến Lê.

[2] [3] [8] Tham khảo thivien.net.

[4] [7] Bản dịch thơ của Nguyễn Hiến Lê trong “Cổ văn Trung Quốc”, Tao Đàn xuất bản, 1966.

[5] “Bạch đinh” là từ chỉ hạng thường dân, ít học, vô tài.

[6] “Kim kinh” ở đây là kinh Kim Cang của nhà Phật.