Tác giả: Dung Nãi Gia

Cơn gió thu mang đến lễ hội dân gian đầu tiên của mùa thu – ngày Thất Tịch. Thất Tịch là đêm mùng 7 tháng 7 Âm lịch, thời xưa còn được gọi là Thất Xảo Tiết, Lễ Khất Xảo, ngày sinh của Thất Tỷ (Chức Nữ). Từ xưa đến nay, ngày lễ này gắn liền với những phong tục và truyền thuyết xoay quanh người phụ nữ, với chủ đề là hôn nhân tình nghĩa, thủy chung. Vì vậy, Thất Tịch còn được mệnh danh là “Lễ Tình nhân của Trung Hoa” hay “Lễ hội của các cặp vợ chồng son sắt”.

Vậy tại sao câu thơ “Lưỡng tình nhược thị cửu trường thì, hựu khởi tại triêu triêu mộ mộ” (Nếu đã yêu nhau dài lâu, thì đâu cần sớm tối bên nhau) của Tần Quan đời Tống lại trở thành câu nói nổi tiếng quen thuộc trong ngày Thất Tịch? Điều này chủ yếu đến từ câu chuyện truyền thuyết lâu đời “Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau đêm Thất Tịch”.

Văn bản câu chuyện Thất Tịch

Thời Ngụy Tấn, “Linh Chi Thiên” của Tào Thực và “Sưu Thần Ký” của Can Bảo (nhà Đông Tấn) đều viết về câu chuyện nàng tiên Chức Nữ giáng trần để giúp đỡ chàng hiếu tử Đổng Vĩnh trả nợ. “Sưu Thần Ký” có ghi lại một câu chuyện hoàn chỉnh:

Vào thời nhà Hán, ở vùng Thiên Thừa (nay là phía bắc thị trấn Cao Thành, huyện Cao Thanh, tỉnh Sơn Đông) có một người con vô cùng hiếu thảo tên là Đổng Vĩnh. Chàng mồ côi mẹ từ nhỏ, sống nương tựa vào người cha già yếu bệnh tật. Đổng Vĩnh phải đi cày thuê cuốc mướn để đổi lấy chút thức ăn và tiền bạc trang trải cuộc sống. Mỗi khi đi làm, vì không yên tâm để cha ở nhà một mình, chàng lại dùng chiếc xe nhỏ đẩy cha đi cùng. Chàng đưa cha đến nghỉ dưới bóng cây, còn mình thì vừa làm ruộng vừa trông chừng cha.

Khi cha qua đời, nhà không còn gì đáng giá, Đổng Vĩnh đành bán thân cho một nhà giàu để có tiền lo tang lễ cho cha. Người chủ biết được sự hiếu thảo của Đổng Vĩnh, bèn cho chàng một vạn đồng tiền và bảo chàng về nhà lo liệu tang sự. Sau ba năm chịu tang cha, Đổng Vĩnh lại tìm đến nhà người chủ để làm công trừ nợ. Trên đường đi, chàng gặp một người con gái ngỏ ý muốn làm vợ chàng. Đổng Vĩnh đành để người con gái ấy đi cùng.

Người chủ thấy Đổng Vĩnh mãn tang mà vẫn chủ động quay lại thì nói: “Một vạn đồng đó là ta cho cậu để lo tang sự cho cha, không cần trả lại.”

Đổng Vĩnh đáp: “Con mang ơn của chủ công, nay đã mãn tang cha. Tuy con thân phận nhỏ bé, nhưng nhất định sẽ cố gắng làm lụng để báo đáp ân đức của ngài.”

Người chủ biết vợ của Đổng Vĩnh biết dệt vải, bèn nói: “Nếu cậu nhất định muốn báo đáp, hãy để vợ cậu dệt cho ta một trăm tấm lụa.”

Vợ của Đổng Vĩnh bèn ở lại nhà chủ để dệt vải. Mười ngày sau, một trăm tấm lụa cao cấp, óng ả đã được đặt trước mặt người chủ. Đôi tay khéo léo như vậy, thế gian tìm đâu ra?

Sau khi trả xong nợ, Đổng Vĩnh cùng vợ bái tạ ra về. Người vợ nói với chàng: “Thiếp là Chức Nữ trên trời. Vì tấm lòng chí hiếu của chàng đã làm cảm động Ngọc Đế, nên người đã ra lệnh cho thiếp xuống trần giúp chàng trả nợ.” Dứt lời, Chức Nữ bay lên không trung rồi biến mất trong chớp mắt.

Câu chuyện Ngọc Đế sai tiên nữ Chức Nữ giúp đỡ người con đại hiếu ở trần gian, đến thời Nam-Bắc triều, trong tác phẩm “Tiểu Thuyết” của Ân Vân (nhà Nam Lương), đã được thêm thắt tình tiết Chức Nữ động lòng phàm, để lại sự nuối tiếc về cuộc gặp gỡ duy nhất mỗi năm vào ngày Thất Tịch.

Vốn dĩ Chức Nữ là một tiên nữ chăm chỉ dệt gấm. Ngọc Đế đã gả người con gái yêu quý này cho chàng Khiên Ngưu Lang cũng siêng năng không kém ở bên kia sông Ngân. Tuy nhiên, sau khi kết hôn, Chức Nữ lại động lòng phàm, chìm đắm trong tình yêu mà bỏ bê việc dệt gấm, đánh mất đi phẩm chất của một tiên nữ. Ngọc Đế tức giận, bèn ra lệnh cho nàng quay về bờ đông sông Ngân, chỉ cho phép hai vợ chồng mỗi năm gặp nhau một lần vào ngày Thất Tịch.

Câu chuyện trong dân gian còn kết hợp thêm các tình tiết như bảy nàng tiên xuống trần gian vui chơi, Chức Nữ trong số đó đã ở lại trần gian và chọc giận Ngọc Đế, rồi lại có thêm các chi tiết lão trâu báo ân, chim khách bắc cầu… để gia đình Ngưu Lang và Chức Nữ được đoàn tụ mỗi năm một lần vào ngày Thất Tịch.

Nguồn gốc Thất Tịch được gắn với “Lễ Tình nhân Trung Hoa”

Sự tưởng tượng về việc Ngưu Lang và Chức Nữ kết duyên có lẽ đã xuất hiện từ thời Tiền Tần – Chiến Quốc. Từ các tài liệu khảo cổ được khai quật gần đây như “Thụy Hổ Địa Tần Giản” [1], bối cảnh của câu chuyện Ngưu Lang Chức Nữ đã được đẩy lùi về thời Chiến Quốc. Trong phần “Nhật Thư Giáp Chủng” của “Thụy Hổ Địa Tần Giản”, có hai đoạn ghi chép ngắn về Ngưu Lang Chức Nữ trong mục cưới vợ, cho thấy người thời đó đã gắn kết hai vì sao này với hôn nhân. Ngoài ra, trong thiên “Đại Đông” của “Kinh Thi – Tiểu Nhã” cũng có miêu tả về sao Khiên Ngưu và sao Chức Nữ.

Từ thời Tiền Tần bước sang thời Hán, truyền thuyết về Khiên Ngưu (tức Ngưu Lang) và Chức Nữ đã phổ biến trong cung đình, trong các phong tục dân gian và được ghi lại trong các tác phẩm văn học. Bài cổ thi “Điêu điêu Khiên Ngưu tinh” (Xa xa sao Khiên Ngưu) trong “Cổ thi thập cửu thủ” thời Đông Hán đã miêu tả nỗi sầu muộn của Chức Nữ và Khiên Ngưu trên trời bị sông Ngân chia cắt:

Điêu điêu Khiên Ngưu tinh, kiểu kiểu Hà Hán nữ.
Tiêm tiêm trạc tố thủ, tráp tráp lộng cơ trữ.
Chung nhật bất thành chương, khấp thế linh như vũ.
Hà Hán thanh thả thiển, tương khứ phục kỷ hử.
Doanh doanh nhất thủy gian, mạch mạch bất đắc ngữ.

Dịch thơ:

Xa xa sao Khiên Ngưu, rạng ngời là Chức Nữ.
Thon thon lùa tay ngọc, lách cách tiếng thoi đưa.
Ngày ngày trên khung cửi, lệ sầu tuôn như mưa.
Sông Ngân mùa trong đục, đi về ai đón đưa
?
Một dòng chia đôi lứa, thăm thẳm chẳng lời thưa.

Ngoài ra, còn có các tác phẩm điêu khắc, tranh vẽ trên đá, và các bức bích họa về thiên văn tinh tượng trong các ngôi mộ thời Hán cũng có nhiều chủ đề về sao Ngưu Lang và Chức Nữ. Nếu truy tìm nguồn gốc của điển tích chim khách lấp sông làm cầu cho Chức Nữ, thì nó đã xuất hiện trong sách “Hoài Nam Tử” từ thời Tây Hán. Có thể thấy, câu chuyện tình yêu Thất Tịch phổ biến ngày nay là kết quả của quá trình tôi luyện và biến đổi văn hóa lịch sử lâu dài. Người đời từ rất sớm đã gửi gắm tình cảm nhân gian vào các vị thần sao Ngưu Lang và Chức Nữ trên trời. Trong thực tế, chúng ta có thể tìm thấy sự tương ứng qua cảnh Thích phu nhân và Hán Cao Tổ cùng nhau đón lễ Thất Tịch vào đầu thời Tây Hán.

Phong tục tỏ tình và Khất xảo trong ngày Thất Tịch

Sách “Tây Kinh Tạp Ký” của Cát Hồng (đời Tấn) có ghi lại những câu chuyện trong cung nhà Hán được các cung nữ truyền miệng, kể rằng Thích phu nhân và Hán Cao Tổ vào ngày mùng 7 tháng 7 “dùng chỉ ngũ sắc buộc vào nhau, gọi là tương liên ái” (kết nối tình yêu); cũng vào ngày này, các cung nữ mặc những bộ y phục lụa đẹp nhất, “xâu kim bảy lỗ ở lầu Khai Khâm” để cầu xin sự khéo léo (khất xảo). Hơn hai nghìn năm trước trong cung nhà Hán, phong tục xâu kim bảy lỗ để khất xảo và dùng chỉ ngũ sắc để “kết nối tình yêu” đã thể hiện rõ tinh thần của “Lễ Tình nhân Trung Hoa” và “Lễ hội phu thê” mà ngày Thất Tịch ẩn chứa, cũng như ước nguyện có được lương duyên của các cô gái.

Phong tục các cô gái xâu kim bảy lỗ để khất xảo trong ngày Thất Tịch đã kéo dài từ thời Hán đến các thế hệ sau. Đến thời Nam-Bắc triều, quy mô của các lầu xâu kim càng trở nên hoành tráng và lộng lẫy hơn. Sách “Dư Địa Chí” ghi lại:

“Tề Vũ Đế cho xây lầu Tằng Thành, vào ngày mùng 7 tháng 7, các cung nhân thường lên đó để xâu kim, đời sau gọi đó là lầu Xuyên Châm (lầu xâu kim).” (Trích “Thái Bình Ngự Lãm – Tự Thì Bộ Thập Lục”)

Thời Nam-Bắc triều, cây kim dùng để khất xảo rất được coi trọng, có loại làm bằng vàng, bạc, đồng thau… Ngoài ra, còn có thêm nhiều phong tục phong phú khác. Phong tục phụ nữ quét dọn sân nhà vào đêm Thất Tịch, lập đàn tế bái sao Khiên Ngưu và Chức Nữ để cầu nguyện cũng bắt đầu từ thời này. Sách phong thổ chí “Kinh Sở Tuế Thời Ký” ghi lại về ngày Thất Tịch như sau: “Bày rượu, thịt khô, hoa quả theo mùa, rắc bột hương lên mâm cỗ để cúng tế Hà Cổ (Khiên Ngưu) và Chức Nữ.” Lễ vật cúng tế khi đó có rượu, thịt khô, hoa quả tươi… không chỉ vậy, việc bày biện cũng rất trang trọng, trên bàn còn rắc bột hương thơm ngát, tỏa ra vẻ trang nghiêm, đài các. Câu chuyện tình yêu của Ngưu Lang, Chức Nữ trong tác phẩm “Tiểu Thuyết” của Ân Vân (nhà Nam Lương) cũng phản ánh những phong tục Thất Tịch này.

Ngoài việc xâu kim khất xảo và bày hoa quả cúng tế hai vị thần sao Ngưu Lang và Chức Nữ, các cô gái thời Nam-Bắc triều còn “chơi” khất xảo. Họ tìm những con nhện nhỏ, gọi mỹ miều là “hỷ tử” (con vật may mắn), đặt lên quả dưa để chúng giăng tơ. Nếu tơ giăng thành mạng đẹp thì đó là điềm báo “đắc xảo” (được sự khéo léo). Những cô gái thức đêm tế bái hai vị thần sao đều mang trong mình ước nguyện cầu được lương duyên. Có người nói rằng nếu thấy được khí trắng lấp lánh hoặc ánh sáng ngũ sắc rực rỡ trên dải Ngân Hà thì đó là điềm lành.

Đối với người đời, tình yêu và một cuộc hôn nhân tốt đẹp luôn là niềm mong mỏi. Việc gửi gắm những ước nguyện tốt đẹp này vào các vị thần sao trên trời thể hiện khát vọng của con người, xưa và nay, trong và ngoài nước đều như vậy! Do đó, việc câu chuyện Ngưu Lang Chức Nữ có nguồn gốc từ rất sớm cũng là điều tự nhiên! Từ nguồn gốc của câu chuyện và phong tục ngày Thất Tịch, chúng ta thấy được rằng tình cảm và khát vọng của con người xưa và nay không hề thay đổi. Sự kiên trinh và tình nghĩa chính là viên kim cương của tình yêu và hôn nhân – nền tảng vững chắc nhất, ánh sáng rực rỡ nhất!


Chú thích [1]

  • Tham khảo: Thái Tiên Kim, Lý Bội Dao, “Thụy Hổ Địa Tần Giản ‘Nhật Thư’ và Thần thoại Khiên Ngưu Chức Nữ”, Đông Nhạc Luận Tùng, 2011 (kỳ 12).
  • Lý Lập: “Biện giải và đính chính về các đoạn ghi chép ‘Ngưu Lang Chức Nữ’ trong Trúc thư Tần Mộ ở Vân Mộng”, Tạp chí Đại học Trường Giang (bản Khoa học Xã hội), 2008 (kỳ 6).

Theo Epoch Times