Trải qua hàng nghìn đời nay, việc uống rượu đã trở thành một nét sinh hoạt truyền thống không thể thiếu trong văn hóa ẩm thực của nhân loại. Nhưng uống rượu như thế nào cho lành mạnh và thực sự có văn hóa lại là một vấn đề khác. Ở bài viết kỳ này, Đại Kỷ Nguyên xin chia sẻ với bạn đọc về chủ đề “uống rượu” từ góc nhìn của một người trong cuộc…
Tương truyền, rượu đã từng xuất hiện từ thời Thần Nông. Đây là vị vua đầu tiên trong huyền sử dạy người dân làm nông và trồng thảo dược. Vì rượu phần lớn là được làm từ ngũ cốc, cho nên có thể nói lịch sử của nó cũng lâu dài như lịch sử của con người làm ra hạt lúa vậy. Cũng có thuyết cho rằng: Đỗ Khang thời Tây Chu phát minh ra cách nấu rượu.
Từ đó đến nay, rượu đã trở thành một thức uống không thể vắng mặt dù là trong yến tiệc linh đình của những ông hoàng bà chúa, hay chỉ là bữa cơm với “mâm bát chạp xoàng” của kẻ thảo dân; từ việc hâm nóng những cuộc vui hào sảng của huynh đệ hải hồ, đến việc làm bạn với nỗi niềm thầm lặng sâu kín của kẻ độc ẩm.
Uống rượu dễ làm cho con người ta có cảm giác như vị giác được thỏa mãn, tinh thần cũng hưng phấn và thăng hoa hơn. Ai e dè, thì bớt e dè hơn. Ai vốn tính trầm lặng, khi có chén rượu vào lại thấy dễ mở lời. Ai buồn đau, rượu sẽ giúp quên sầu nhân thế. Uống rượu và bình phẩm về rượu lại còn được coi là một trong những “lạc thú” của những kẻ sành chơi.
Từ chén rượu trong thi văn
Cũng vì những nguyên do như đã nói ở phần trên mà rượu đã đi vào thi ca và văn đàn với muôn hình vạn trạng tình huống của cuộc sống. Chắc hẳn không ai là không biết câu: “Tửu phùng tri kỷ, thiên bôi thiểu”. Người ta thấy quả thực là: Uống rượu ngàn chén với người tri kỷ thì hãy còn là thiếu. Trong những lần giao cảm tinh thần của những người tri kỷ, ít khi thấy vắng rượu. Vì rượu đưa đẩy cho câu chuyện càng thêm nồng đượm, để “lòng mở với lòng, thơ kết duyên”.
Thói thường phải có chén rượu thì mới có “xúc tác” để khơi nguồn cho những kiệt tác thi văn của danh sĩ. Cũng giống như Tô Đông Pha, uống rượu say rồi múa dưới bóng trăng mới có những vần thơ tuyệt phẩm:
“Vầng trăng sáng có tự khi nào
Nâng chén rượu lên hỏi trời cao
Chẳng biết cung điện trên chốn ấy
Đêm nay đã là đêm năm nào…”
(Trích: “Thủy điệu ca đầu”)
Còn khi buồn thì sao? Thi Tiên Lý Bạch viết: “Trừu đao đoạn thủy, thủy cánh lưu. Cử bôi tiêu sầu, sầu cánh sầu”. (Đại ý là: “Rút dao chém nước, nước trôi mau. Nâng chén tiêu sầu, sầu thêm sầu). Hoa đã trôi hữu ý, nước lại chảy vô tình. Ngày tháng qua đi chỉ còn lại trăm mối tơ vò trong lòng cảm hoài muôn thuở kiếp nhân sinh bất đắc ý. Muốn mượn chén rượu để quên sầu mà thấy khó thay!
Còn với Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, khi bạn tri kỷ của ông là Dương Khuê mất đi, thì hồn thơ vốn được coi là mộc mạc giản phác của làng cảnh Việt Nam này bày tỏ ra sao? Cũng lại là lấy rượu ra để mà tưởng nhớ:
“Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua”
Đến sau thời kỳ bối cảnh lịch sử xã hội mà nhà thơ Nguyễn Khuyến từng sinh sống, các thi nhân Việt Nam thuộc phong trào “Thơ Mới” đã than thở nỗi chán chường thời thế và nhân thế của mình với bạn văn như thế nào? Ta hãy lắng nghe khí khái ngang tàng kiêu bạc của thi nhân Nguyễn Vỹ gửi tới bạn mình là giáo sư Trương Tửu:
“Dạo ấy chúng mình nghèo xơ xác
Mà coi đồng tiền như cái rác
Kiếm được xu nào đem tiêu hoang
Rủ nhau chè chén nói huênh hoang
… Rồi ngủ một đêm mộng với mê
Sáng dậy, nhìn nhau cười hê hê”
(Trích: “Gửi Trương Tửu”)
Vậy đó, lại vẫn là những dòng thơ chếnh choáng hơi men và miên man mùi rượu!
Xa xăm hơn nữa, vào cái thuở mà trai tráng còn mải mê lập công danh bằng “thanh gươm yên ngựa”, ở đất Hoa Hạ, người ta không thể quên không khí bi tráng của buổi tiễn tráng sĩ lên đường diệt giặc Hung Nô trong thi phẩm “Lương Châu Từ” của Vương Hàn. Trong buổi tiễn đưa ấy, người tráng sĩ được dâng mời chén rượu Bồ đào (rượu nho), đựng trong chén ngọc dạ quang. Rượu Bồ đào đổ trong chén dạ quang bỗng lấp lánh màu đỏ ối như huyết. Tráng sĩ uống cạn mà thấy hào khí bừng bừng, tưởng như mình vừa uống cạn sạch máu quân giặc Hung Nô vậy: “Tiếu đàn khát ẩm Hung Nô huyết”. Nhưng phảng phất đâu đó vẫn thoáng chút ngậm ngùi bi thương trong tâm tình người tráng sỹ ra đi mà không biết có ngày trở về:
“Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi.
Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu,
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”.
Dịch thơ:
“Rượu bồ đào, chén dạ quang
Muốn say, đàn đã rền vang giục rồi
Sa trường say ngủ, ai cười ?
Từ xưa chinh chiến mấy người về đâu!”
(Bản dịch: Trần Trọng San)
Xưa nay đã là anh hùng hảo hán thì phải biết uống rượu. Như Võ Tòng chẳng hạn, mấy lần oanh oanh liệt liệt: đánh hổ trên đồi Cảnh Dương, đả bại Tưởng Môn Thần đều là trong tình trạng ngất ngất ngư ngư sau hàng chục bát rượu mà vẫn tựa hồ chưa say, tựa hồ chưa thỏa. Nói chung, hảo hán Lương Sơn thời ấy là ăn thịt bằng cân, uống rượu bằng bát lớn.
Phong cách hào sảng đó người ta cũng bắt gặp ở hảo hán Tiêu Phong, nhân vật Bang chủ Cái Bang trong tuyệt tác kiếm hiệp “Thiên Long Bát Bộ” của nhà văn Kim Dung. Người anh hùng mang dòng máu Khiết Đan này không ham nữ sắc, chỉ thích bạn rượu. Đến lúc buộc phải phân cuộc sinh tử với các bạn cũ ở Tụ Hiền Trang và Thiếu Lâm Tự, cũng là mời nhau uống một trận thỏa thích cho đoạn tình bằng hữu giang hồ, rồi mới đến màn đao kiếm phân hùng, máu chảy đầu rơi!
Người mê rượu, lại ham chuộng cái đẹp trong văn hóa uống rượu tao nhã cũng sẽ đâu thể nào quên cái trường đoạn mà Tổ Thiên Thu luận về rượu với Lệnh Hồ Xung trong tiểu thuyết “Tiếu Ngạo Giang Hồ” của Kim Dung. Mượn miệng của Tổ Thiên Thu, Kim Dung đã đưa người đọc vào thế giới của văn hóa rượu mà cũng bác đại tinh thâm như lạc vào thế giới của các chiêu thức võ học vậy!
Nào là: uống rượu đất Phần phải dùng chén ngọc, để làm cho sắc rượu thêm phần rực rỡ. Rượu trắng ngoài quan ải phải uống bằng chén sừng tê thì mùi vị mới thuần mỹ phi thường. Rượu Bồ Đào thì phải uống chén dạ quang mới có hào khí. Rượu cao lương thì phải dùng chén “tước” bằng đồng xanh mà uống mới đủ cổ kính; lại như loại “Bách Thảo Tửu” vốn dĩ là thứ rượu ngâm với trăm loại hoa thơm cỏ lạ thì phải dùng chén bằng gỗ cổ đằng thì mùi thơm mới tăng lên bội phần.v.v… khiến cho Lệnh Hồ Xung, một kẻ quý rượu còn hơn cả sinh mệnh, nhưng xưa nay chưa từng được tiếp cận với văn hóa ẩm tửu thú vị và đệ nhất công phu đến thế, cũng phải say sưa lắng nghe đến tròn mắt há miệng.
Không chỉ ở xứ Á Đông, người Phương Tây cũng rất coi trọng rượu. Athos, nhà quý tộc hoàn hảo của “Ba chàng lính ngự lâm”, là người rất sành về rượu. Để giải hòa những xích mích và nối lại tình bạn keo sơn sau 20 năm xa cách, Athos đã chẳng chút lưỡng lự mà gọi ra bốn chai rượu champagne. Dù cho mọi người đều biết anh ta vốn đã bỏ rượu từ lâu và ghê sợ nó đến mức nào.
Văn hóa uống rượu của Phương Tây cũng hết sức phong phú và tinh tế với rất nhiều dòng rượu khác nhau. Đằng sau mỗi chai rượu vang hay whisky là cả câu chuyện lịch sử thăng trầm của một dòng họ và dân tộc. Nếu ai đã từng xem bộ phim lãng mạn “A Walk in the Clouds” của điện ảnh Hollywood do tài tử Keanu Reeves đóng thì chắc chắn sẽ cảm nhận được điều này và nếu như trong văn hóa Trung Hoa xưa có Đỗ Khang được phong danh là Tửu Thần, thì Phương Tây (Hy Lạp cổ) cũng sẽ có Tửu Thần Bacchus.
Đến văn hóa uống rượu hiện nay
Người viết bài này cũng từ chỗ “mê mẩn” với văn hóa uống rượu xưa mà trở thành một người không biết từ chối “cái sự khề khà”. Những cuộc vui bên mâm rượu dường như cũng không hề ít. Nhưng thông thường mọi sự mọi việc đều có hai mặt, rượu cũng thế. Rượu chỉ đẹp trong thơ văn và chỉ có ý nghĩa khi người ta biết uống có điểm dừng.
Bởi vì, tác hại của việc sa đà quá chén là hết sức khôn lường. Giống như một nhà hóa học nổi tiếng đã nói: “Một chất được coi là độc, là bởi nồng độ của nó”. Vì thế, uống đôi chén thì còn được, nhưng nhiều hơn nữa thì mọi việc dường như mỗi lúc lại trở nên không còn còn tốt nữa: “Ly thứ nhất: cạn; ly thứ hai: sóng sánh trên môi; ly thứ ba chao đảo phương trời; ly thứ tư lờ đờ nhân ảnh”!
Văn hóa uống rượu xưa, nay đã mai một quá nhiều. Người ta không còn coi việc uống rượu là một thú chơi, một nét đẹp trong văn hóa ẩm thực, một sự thưởng thức tinh tế và có chừng mực. Nhiều người đã trở thành “con sâu rượu” khiến cho bản thân trở nên bị lệ thuộc và trở thành nô lệ của ma men: Bất kể có lý do gì cũng uống. Không có lý do gì cũng uống! Không có lý do thì tự nghĩ ra. Đông người cũng uống, một mình cũng uống!…
Đến cuộc vui mới ghê! Nhập tiệc mà không uống rượu, nhẹ thì bị kỳ thị, hắt hủi, mỉa mai. Nặng thì bị mắng chửi, bị đuổi ra! Có khi cũng chỉ vì chuyện uống rượu mà xảy ra xô xát. Lại còn có người coi cái việc uống rượu kia trở thành một cuộc thi đấu chết bỏ về bản lĩnh đàn ông! Mà việc uống rượu ấy đâu chỉ có ở các đấng mày râu. mà gần đây, cả cánh chị em cũng sa đà nhập cuộc. Họ uống đến mức không còn một chút lí trí và thực sự không còn biết rượu ngon hay không ngon ở chỗ nào nữa.
Trong khi uống, có những người như biến thành một kẻ hoàn toàn khác, phô bày hết các góc tối của tâm hồn mình. Có đôi khi, một vài hình ảnh trong cuộc nhậu làm người ta thấy buồn và thấy nhớ về một đoạn văn xưa: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi trời, có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: Đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại…” (Trích: “Chí Phèo” – Nam Cao).
Có nhiều người, tuổi cũng đã quá độ: “tứ thập nhi bất hoặc”, thân đã trải trăm trận, không phải là trận mạc oai hùng, mà là trận nhậu. Họ hiểu lắm lắm về tác hại của rượu, cho nên trong nhà cũng luôn tàng trữ các loại thuốc, thảo dược giải rượu. Ở bên ngoài thì cắn răng chạm cốc, hết “cao bằng” đến “bắc cạn”. Uống không dám để lại một chút xíu “long đen”. Về đến nhà thì hộc tốc uống thuốc giải. Thấy sao mà xót xa!
Rượu bây giờ cũng không còn giữ được sự thuần khiết của nó nữa. Có người cái gì cũng đem ngâm rượu. Không chỉ rắn, rết, mà còn cả bọ cạp, chim chóc nguyên lông, bò sát nguyên nội tạng, lại có ngâm cả quả và hoa anh túc… thôi thì đủ thứ đủ loại, Hỡi ôi, cứ gọi là loạn “bát nháo xì ngầu”. Chẳng hiểu cái văn hóa ấy ở đâu ra? Và nó bổ béo dựa trên cơ sở nào? Hay là sản phẩm tùy hứng? Uống những thứ ấy vào người có khi còn sinh bệnh lạ. Chưa kể đến vấn nạn rượu giả.
Bởi những nguyên do trên mà tôi quyết định bỏ rượu. Vì uống ít đi nghĩa là vẫn còn phải uống, vẫn bị ép uống nhiều. Thà rằng bỏ hẳn. Lúc đầu tưởng là khó bỏ, sau thấy cũng bình thường. Khó là vì mình không vượt qua được quan niệm của mình thôi. Nhưng tôi biết những cuộc rượu trong thiên hạ thì vẫn còn liên tu bất tận, vậy đương nhiên, những câu chuyện tản mạn xoay quanh cuộc rượu cũng vẫn có thể chưa có điểm dừng. Vậy xin hẹn gặp lại quý độc giả qua những câu chuyện mạn đàm về chủ đề “rượu” ở các kỳ tiếp theo.
(Còn tiếp)
Chế Tửu