Được mệnh danh là sứ thần “bất nhục quân mệnh” (không làm nhục mệnh vua), ông đã để lại tấm gương đối đáp hiên ngang trước sự chèn ép và khinh mạn của quân vương “thiên triều”.
Việc ngoại giao với vương triều luôn nhăm nhe nước Việt, không phải chỉ là để hòa hảo, khéo léo nhằm giữ mạng. Mà mục đích bảo vệ sự tôn nghiêm, uy vũ của nhà vua và quyền lợi của người dân Đại Việt cũng là điều không thể xem nhẹ. Trước sự ngông cuồng, vô lối, phi lý của ngoại bang, để mất chủ kiến và vị thế ngẩng cao đầu cũng là một cái tội của kẻ làm quan.
Nỗi nhục ngàn năm của các vương triều phương Bắc
Sau khi thi đỗ Đình nguyên Thám hoa khoa Mậu Thìn, năm Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) đời Lê Thần Tông, Giang Văn Minh được triều đình tấn phong nhiều chức quan và được cử đi trấn giữ, cai quản vùng đất Nghệ An.
Bấy giờ, nhà Minh đã suy tàn, trong nước loạn lạc nổi lên. Nhưng vua Lê bạc nhược, vẫn bị nhà Minh coi thường và o ép đủ điều. Họ đòi Đại Việt phải cống nạp nhiều lễ vật quý hiếm, trong đó có hai tượng người được đúc bằng vàng và bạc, mỗi tượng người cao 1 thước 2 tấc và nặng 10 cân, để trả món nợ giết Liễu Thăng khi xưa như nhà Mạc vẫn làm.
Thời điểm đó, mặc dù nhà Mạc đã bỏ chạy ra Cao Bằng, nhưng nhà Minh vẫn áp dụng chính sách ngoại giao hai mặt với nhà Hậu Lê và nhà Mạc, nhằm góp phần khiến cuộc chiến Lê – Mạc kéo dài. Năm 1637, vua Lê cử Giang Văn Minh làm chánh sứ dẫn đầu phái bộ Đại Việt sang sứ nhà Minh. Đến Yên Kinh (kinh đô của nhà Minh, nay là Bắc Kinh, Trung Quốc) phái bộ sứ thần Đại Việt phải chờ ngoài dịch xá vì sắp đến tiết khánh thọ.
Minh Tư Tông (tức hoàng đế Sùng Trinh) lấy lý do lệ cũ không có những quy định cụ thể cho việc sắc phong, nên trong khi chờ tra cứu, chỉ ban sắc thư để tưởng lệ, có ý để ngăn trở việc công nhận sự chính thống của nhà Hậu Lê. Bọn đại thần nhà Minh còn tỏ rõ ý khinh thường sứ thần nước Nam, không thèm tiếp, hơn nữa còn hạch sách đòi trả “nợ Liễu Thăng” như nhà Mạc đã làm. Giang Văn Minh lấy làm phẫn uất lắm, bèn nghĩ cách ứng phó và trả đũa.
Nhằm ngày tiết khánh thọ (mừng thọ) của vua Minh, sứ thần các nước khác có mặt tại dịch xá đều mũ áo chỉnh tề, sẵn sàng lễ vật vào triều cống, riêng sứ thần Đại Việt lại nằm khóc lóc ở dịch xá, vua Minh bèn cho gọi vào chầu.
Vua hỏi nguyên do, Giang Văn Minh tâu rằng do đến ngày giỗ vị tằng tổ mà vẫn chưa được về quê hương, đi sứ đã mấy năm trời mà chưa làm trọng trách, trong lòng không vui, cũng lại thấy đắc tội với tổ tiên nên buồn khóc. Vua Minh cho rằng quả là “trung hiếu vẹn toàn”, nhưng ông tổ 3 đời rồi còn gì mà phải lo về quê tưởng niệm.
Giang Văn Minh chỉ chờ có thế bèn lên tiếng:
“Tôi cũng nghĩ vậy, nhưng khốn nỗi, người đời có nghĩ thế đâu. Ngay như việc Thiên triều bắt dân tôi năm nay phải theo lệ cũ cống người vàng để trả ‘nợ Liễu Thăng’, mà Liễu Thăng thì đã chết cách hơn 200 năm rồi. Chuyện cũ đã mờ, mà dân tôi hàng năm cũng vẫn chưa được xóa bỏ lệ cũ. Hơn nữa, vua tôi nhà Lê có tội gì đâu mà Thiên triều vẫn đòi lễ cống hằng năm? Đó chẳng phải là việc trái với đạo lý và thể diện của Quốc vương tôi sao? Nay, bệ hạ khuyên tôi đừng thương nhớ ông tổ ba đời, thì tôi cũng xin bệ hạ noi theo mệnh lớn mà từ nay miễn cho nước tôi lệ đúc người vàng tiến cống. Đó chẳng phải là việc tốt để gây lại mối giao hảo bền vững giữa hai nước láng giềng hay sao?”
Vua Minh cứng họng không biết đối đáp ra sao, đành miễn cưỡng bãi bỏ lệnh cống người vàng đã kéo dài từ thế kỷ 15 tới lúc này.
Sau vài lần thấy Giang Văn Minh đối đáp thẳng thắn với quan lại nhà Minh, vua Sùng Trinh bèn thử tài trí của ông bằng một vế đối: “Đồng trụ chí kim dài dĩ lục”. Có nghĩa là: “Cột đồng tới nay rêu đã xanh”, ý nhắc lại chuyện Mã Viện nhà Đông Hán xưa kia từng đàn áp khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, đánh chiếm nước Nam và cho dựng cột đồng như bằng chứng chiến tích, cùng lời nguyền: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (cột đồng gẫy thì Giao Chỉ, tức Đại Việt sẽ diệt vong).
Chẳng cần chờ lâu, Giang Văn Minh hiên ngang đối lại bằng câu: “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng”, nghĩa là: Sông Bạch Đằng từ xưa máu còn đỏ. Vế đối này vừa cân, vừa chỉnh lại có ý nhắc việc người nước Nam đã ba lần đánh tan quân xâm lược phương Bắc trên sông Bạch Đằng .
Trước văn võ bá quan và sứ thần các nước, câu đối của Giang Văn Minh chẳng khác nào cú tát thẳng vào mặt hoàng đế nhà Minh. Sùng Trinh tức giận, bất chấp luật lệ bang giao, lấy cớ sứ thần Đại Việt “làm nhục thiên triều” nên sai người trám đường vào miệng và mắt ông, rồi cho người mổ bụng xem “sứ thần An Nam to gan lớn mật đến đâu”.
Hôm ấy là ngày 2/6/1639, Giang Văn Minh bị giết năm 57 tuổi. Nhưng người xưa dù sao vẫn trọng đạo nghĩa, Sùng Trinh xem vậy vẫn kính trọng Giang Văn Minh, cho người hãm vết mổ bằng bột thủy ngân, cho ông ngậm sâm rồi đưa vào quan tài đóng kín có hai lớp gỗ dày, trao trả sứ bộ nước ta mang thi hài ông về quê an táng.
Khi thi hài của ông về tới nơi an táng, vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng bái kiến linh cữu ông và truy tặng chức Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công, ban tặng cho mấy chữ: “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng”, nghĩa là: “Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ”.
Cái lý của người xưa
Xưa người làm quan chính trực luôn biết giữ lòng Trung, bề tôi hết lòng phục vụ quân vương, quân vương lại hết lòng phục vụ dân. Người xưa cũng nói “chính giả chính dã” (chính trị là làm cho trở nên chính đáng), thế nên ra làm quan, làm chính trị trước tiên phải để bản thân mình thật đoan chính, rồi mới có thể hướng dẫn quần nhân làm người tốt, điều chỉnh an sinh xã hội cho trở nên đúng đắn. Bản thân có thể ngẩng cao đầu, khiến quốc gia, bá tánh được ngẩng cao đầu, làm sáng rõ cái đạo ngay thẳng làm người, chẳng phải đó mới là làm chính trị, làm cho chính. Người đọc sách Thánh hiền, hiểu phải giữ đạo của người quân tử, thà chết nơi đất khách chứ không làm nhục quốc thể, nhục mệnh vua.
Để có được lòng trung của bề tôi hiểu đạo ấy, vua phải cho ra vua, tức là vua phải thi hành bổn phận của vua. Bổn phận của vua là thương yêu dân, hết lòng phục vụ dân. Dân nước Nam chắc chẳng có đời nào lại nguyện ý làm trâu làm ngựa, nai lưng cúng tế cho “thiên triều”. Nên một phần có được chính lý là theo ý dân, mệnh vua nên người đi sứ như Giang Văn Minh mới có thể đường đường chính chính thể hiện chí khí ngất trời giữa đất Trung nguyên năm ấy.
Theo Việt sử giai thoại của Nguyễn Khắc Thuần