Người xưa coi văn chương là một hành vi sáng tạo rất thiêng liêng. Văn là để chuyên chở Đạo Đức. Nó như kim chỉ nam chỉ đạo những con chữ sinh thành dưới ngọn bút lông. Vì thế, văn chương là cái Chí, là quan niệm nghiêm túc về cuộc sống. Tài năng nhà thơ nhà văn có khả năng định hướng cho cả một cộng đồng đi vào cái Đẹp của Đạo đức cao cả. Chúng ta hãy chiêm nghiệm điều đó qua Truyện Kiều của Nguyễn Du. 

Xem thêm: Phần 1 và Phần 2

Trong đôi mắt nhiều tiên cảm về thân phận, nàng Kiều thấy điều chẳng lành trong lần đầu tiên chơi xuân.

Đó là cảnh của một ngày trong mùa xuân muộn, rất riêng, rất đặc trưng về một ngày chơi xuân của 3 chị em Thúy Kiều.

Ngày xuân con én đưa thoi …(Ảnh: pinterest.com)

Ở đây, ngày xuân có sáng, có chiều, có lễ, có hội, có 3 chị em, có cái nhìn và tâm sự rất riêng tư của Kiều, có Kim Trọng, có Đạm Tiên, có đêm xuân thổn thức, có sáng hôm sau chim hót xa gần và có cả bông hoa liễu “bay sang láng giềng làm mai, làm mối“..

Đó là một ngày xuân cụ thể với rất nhiều những sự vật, tâm trạng cụ thể mà chỉ qua thiên tài họ Nguyễn mới có thể tạo nên một bức tranh với một cái nhìn đầy ý nghĩa.

Mùa xuân thường có những dấu hiệu quy ước. Nào là chim én lượn, cây nảy chồi, trời xanh nuớc biếc; nào là hoa đào, hoa mai nở rộ, nào là cỏ non dợn sóng với gió xuân mát rượi…

Có thể nghe bài “Mùa Chim Én Bay” này để thấy cảm xúc xuân thông thường của tuổi trẻ.

“Khi gió đồng ngát hương rợp trời chim én lượn

Cây nẩy mầm chồi xanh, mây trắng bay yên lành …”

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi (Ảnh: pinterest.com)

Nguyễn Du cũng nói về chim én trong cảnh mùa xuân: “Ngày xuân con én đưa thoi”.

Thoi đi rất nhanh. Mùa xuân mới về đó mà giờ đây thời khắc ngày tháng qua nhanh như thoi đưa. Có một chút ngậm ngùi: Xuân cũng hạn cuộc ba tháng như Hạ, Thu, Đông mà thôi.

Trời đất vốn vô tình đâu có chiều theo cái chữ Tình của con người mà vận tác..

Én xuất hiện nhỏ nhoi trên bầu trời của những ngày xuân muộn, xuân tàn. Một con én mang thân phận trả nợ thế gian. Nó không bay lượn khoáng đạt tự do mà phải dệt những sợi VĨ cuối cùng cho tấm vải mùa Xuân. Nó không phải là con chim én trong bài hát kia chao nghiêng, chấp chới lời yêu lứa đôi.

Ngày xuân con én đưa thoi…(Ảnh: pinterest.com)

Xuân cô đơn, xuân đang đi những bước cuối cùng. Đó là Cái Xuân của riêng Nguyễn Du dùng nó cho một ngụ ý trong tác phẩm. Quả vậy, cái ngày xuân nay: “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”. Hai tiếng”韶光 sháo guāng “thiều quang” nghĩa là cảnh xuân tươi đẹp, tuổi xuân phơi phới.

Tuổi thanh xuân của con người, sắc xuân của thiếu nữ, bản nhạc xuân diệu kỳ có thể tịnh hóa tâm hồn vạn vật đã phai, đã hết đầy, đang vơi dần đi. 90 ngày rất ngắn ngủi của xuân đang hết dần.

Khí vượng xuân, khí hạo nhiên của xuân, sắc của xuân, nhạc của xuân đang hết dần. Thật khó mà nói cho hết được hai tiếng “Thiều quang” trong câu thơ này! Hai dòng:

“Cỏ non xanh rợn chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa (Ảnh: pinterest.com)

Bởi đây là một ngày Xuân của tháng thứ ba, nên cỏ xanh “rợn” chân trời. Cỏ tưởng non nhưng thực ra nó đã “xanh rì”. Trong đôi mắt có nhiều tiên cảm về thân phận, nàng Kiều thấy có cái gì đó chẳng lành cho cuộc đời thiếu nữ của mình trong lần đầu tiên chơi xuân.

Điều này hợp lý khi câu thơ tiếp theo ta gặp một cành lê buổi tàn xuân. Hoa không chen chúc, nở rộ mà lơ thơ vài ba bông trắng còn lại. Xuân là của Đào: “Nhân diện đào hoa tương ánh hồng”; “Hoa đào năm ngoái còn cười gió Đông”…

Tại sao lại là hoa LÊ? Tại sao tối hôm ấy Kiều khóc khiến cha mẹ hốt hoảng: “Cớ sao trằn trọc canh khuya/ Màu hoa lê hãy đầm đìa giọt mưa?”

Tại sao “Người đàn bà khóc như cành hoa lê đẫm mưa” lấy từ thơ Bach Cư Dị (Lê hoa nhất chi xuân đái vũ), Tản Đà lại viết: “Cánh hoa lê chíu hạt mưa xuân dầm”?

Và Nguyễn Du?…

Hay 2 câu của Chu Văn An trong bài thơ “Xuân sớm”:

“Trời xanh, cỏ biếc, lê thê.

Đầu cành hoa đỏ, đầm đìa hạt sương.”

Đầu cành hoa đỏ, đầm đìa hạt sương (Ảnh: pinterest.com)

Tháng ba âm lịch là “tiết Thanh Minh” nghĩa là “Tết Thanh Minh”. Phong tục phương Đông thường xuất hiện cả LỄ và HỘI. Lễ Tảo Mộ là thủ tục của cháu con đến bên mộ ông bà cha mẹ thắp hương, cúng vái, đốt tiền giả, gieo những thoi vàng bằng giấy để cho người âm có vàng, có tiền mà tiêu ở chốn âm gian.

Đặc biệt, ngày lễ này người ta thường lấy đất đắp cho to cho cao những nấm mộ qua năm tháng gió mưa bị xói mòn hoặc là trâu bò giẫm đạp mà sạt lở. Người ta bứng từng mảng cỏ bao quanh ngôi mộ, dùng cỏ giữ cho mộ không bị nắng mưa xóa dấu… Ngày tảo mộ trong Tết THANH MINH cũng là dịp mọi người ra không gian đồng nội thoáng đạt để vui chơi:

“Sóng cỏ non tươi gợn tới trời

Bao cô thôn nữ hát trên đồi

…Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi

Hổn hển như lời của nuớc mây

Thầm thỉ với ai ngồi dưới trúc

Nghe ra ý vị và thơ ngây…”

(Hàn Mạc Tử)

Gần xa nô nức yến anh. Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân (Ảnh: pinterest.com)

 Người đi hội trong tết Thanh Minh ấy đạp lên trên cỏ nên gọi “hội là Đạp Thanh”. Không khí lễ và hội ấy làm náo nức mọi người: “Gần xa nô nức yến anh”. Ai cũng phập phồng, ai cũng đợi chờ, ai cũng phấn chấn đón ngày vui..

Xuân Diệu cũng dùng “yến anh” như Nguyễn Du: “Của yến anh này đây khúc tình si”. Từ điển ghi: Chim yến (én), chim anh (có khi đọc là oanh), hai loài chim về mùa xuân, thường hay ríu rít từng đàn.

“Nô nức yến anh” ví với cảnh những đoàn người rộn ràng đi chơi xuân.  Chị em Kiều cũng bị cuốn vào không khí lễ hội đó. Họ cũng chuẩn bị nhang hương,vàng mã và họ cũng rảo bộ ra không gian đồng nội mênh mông: “Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân”

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân (Ảnh: pinterest.com)

Thành phần những người đi trong tết Thanh Minh chắc có đủ nam, phụ, lão ấu; có người giàu kẻ nghèo; có quý tộc thượng lưu và cũng có dân đen lam lũ…

Nhưng qua con mắt mang cái Tình của người thiếu nữ, Kiều chỉ nhìn thấy: “Dập dìu tài tử giai nhân”. Những con người có thể thành đôi thành lứa, thành yến anh, thành trai tài gái sắc…

“Tài tử giai nhân” như sóng biển dập dìu. Ngựa xe có tài tử giai nhân thì chiếc này nối chiếc khác như dòng nước chảy liên tục không đứt đoạn… Áo quần ngũ sắc của tài tử giai nhân thì quấn vào nhau đan xen nhau như nêm vào xanh đỏ trắng vàng. Hội ĐẠP THANH thật nô nức thật tưng bừng: “Ngựa xe như nước, áo quần như nêm”.

Cảnh vật của “lễ tảo mộ” gợi cho ta một không khí tan hoang, chướng mắt, chẳng hài hòa. Bức tranh xuân được thay thế bởi những những gì nhân tạo:

“Ngổn ngang gò đống kéo lên,

Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay”

Chợt nhớ tới câu thơ trong “Tràng giang” của Huy Cận mô tả địa hình: “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”.

Nếu Tràng giang là dòng đời nghiệt ngã của định mệnh thì ngọn gió đìu hiu như có những âm hồn khắc khoải, nó lang thang trong những gò, những cồn mả nghĩa địa. Không gian Tràng giang là không gian của rợn ngợp không bóng người. Tất cả cái đã khuất dấu lẫn cái đang bị động trôi như cành củi khô đều thụ động xuôi mái buông chèo. Cảnh thiên tạo của cỏ, của hoa lê trắng dù tiêu sơ nhưng cũng hài hòa tinh khiết. Đến khi con người tác động với lễ tảo mộ thì quả là nham nhở, xấu xí. Tất cả sự bình hòa, phẳng lặng của không gian bị xới tung.

Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay (Ảnh: pinterest.com)

Hai tiếng “ngổn ngang” cho thấy sự bề bộn, cẩu thả thiếu tự nhiên. Cứ như có một thiên tai nào vừa mới quét qua…”

Tự dưng, cánh đồng cỏ xanh bỗng loang lổ những ngôi mộ lúp xúp như cồn mả. Người ta đào đất mới, xẩy cỏ mới để bồi vào những nấm đất do thời gian,do bò trâu làm sạt lở. Thật là khung cảnh hãi hùng. Gò đống cứ như từ thế giới âm ty đội lên trên mặt cỏ.

Cảnh dương gian với cỏ, với hoa, với giai nhân, ngựa xe dường như biến mất. Thế giới âm gian hiện ra truớc mắt Kiều như một thoáng rùng mình để thẩn thờ: “Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay”.

Đêm buông xuống, chiều tà

Những câu sau là cảnh chiều một ngày xuân thanh minh của ba chị em Kiều. Tà dương đang đổ bóng hướng Tây: “Tà tà bóng ngã về tây”

Tà tà bóng ngả về tây. (Ảnh: pinterest.com)

Cả ba bộ hành trở về nhà. Có lẽ những gì sắm sửa cho lễ tảo mộ đã không còn lỉnh kỉnh lích kích nữa nên bước chân thì khoan thai, cánh tay thì khoáng hoạt, phong thái thì thơ thới, vô tâm vô tư, hạnh phúc: “Chị em thơ thẩn dan tay ra về”

Họ cứ men theo, lần theo con suối nhỏ mà ngược dòng. Nguyễn Du gọi đó là “ngọn tiểu khê” cũng như sau này ông cho Kiều ở lầu Ngưng Bích nhìn cảnh vật từ cửa biển ngược thượng nguồn: “Buồn trông ngọn nước mới sa”

Chị em thơ thẩn dan tay ra về (Ảnh: pinterest.com)

Hình như đồng cỏ, bầu trời; chân mây mặt đất; hình như dòng suối và cảnh vật hai bên nó cứ bàng bạc xanh xanh không rõ ràng: “Bước lần theo ngọn tiểu khê/ Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh”.

Thực cảnh mờ là để cho tâm cảnh lộ diện, có cơ hội bộc lộ: “Nao nao dòng nuớc uốn quanh/ Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”.

Không phải là “tiểu khê” mà là “dòng nước”. Dòng nuớc uốn quanh mềm mại, duyên dáng đầy nữ tính. Dòng nước làm sao biết “nao nao”?

Chỉ có lòng nhi nữ thảnh thơi thanh xuân “dan tay” cùng em mình ra về sau một ngày Thanh Minh thấy tâm trạng muốn ở muốn đi, dùng dằng mới “nao nao” như vậy! Đến tận chót của “ngọn tiểu khê” có ghềnh nước. Một chiếc cầu không nhỏ mà là “nho nhỏ” bắc ngang…

Tất cả cảnh vật đều thu nhỏ lại trong buổi chiều xuân dưới cặp mắt thanh xuân của người thiếu nữ. Cảnh thanh sơ mà tình lưu luyến. Cái nhìn sao mà vô tư, sao mà dính mắc, sao mà thản nhiên nhưng vời vợi những nỗi niềm.

Nhờ những từ láy “tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ” mà cảnh vật không còn khách quan nữa. Thật khó mà phân định rạch ròi những trạng thái của người ngắm cảnh… Câu thơ tiếp theo, xuất hiện nấm mồ vô chủ: “Sè sè nấm đất bên đường/ Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”.

Những câu thơ mô tả ở trên là những vi mạch truyền năng lượng cho đoạn thơ sắp sửa. Đáng tiếc là chúng ta thường cô lập những câu thơ của Nguyễn Du và không ít người nói theo những gì người ta đã nói.

Tết tháng ba thanh minh của Nguyễn Du, của Kiều không phải và không thể là tiết tháng ba của mọi người.

Tết tháng ba thanh minh của Nguyễn Du, của Kiều không phải và không thể là tiết tháng ba của mọi người. (Ảnh: pinterest.com)

Người xưa bình Kiều thường tìm tri âm tri kỷ với Nguyễn Du, với nhân vật của Ông. Các Cụ xưa thường tức cảnh sinh tình và làm thơ làm phú.

NHÂN ĐỌC “CẢNH NGÀY XUÂN” CỦA NGUYỄN DU.

Ôi, Kiều ơi!
sao ngổn ngang buồn?
Hoa lê trắng thưa cành,
Chim én chao riêng một cánh,
Làm thoi đưa
dệt nốt những vô thường.
Thảm cỏ bạc màu xanh,
Ngổn ngang những oan hồn.
Đốt vàng mã
có ấm người dưới suối?

Ngọn tiểu khê
Kiều ngược dòng lặn lội,
Chiếc cầu ngang,
Cho nàng gặp Đạm Tiên
Mười lăm năm ma nào đưa lối?
Quỷ nào đưa đường?
Chàng Kim yêu vội,
Sở Khanh rẽ cương,
Thúc Sinh chia nửa vầng trăng,
Bối rối

Chim Hồng gãy cánh
Từ Hải chôn chân sừng sững giữa chiến trường.
Ông quan họ Hồ
Gieo cánh hồng xuốngTiền Đường.

Ầm ầm sóng,
Dựng trời mây xám
Cuộn bão tố mưa sa
Lớp lớp những giao long …
Bè lau thiêm thiếp.
Vô thanh.
Ai oán.
Thở dài.
Đoạn trường
Nhức nhối
bi thương…

Bàn cờ thế,
ngày đoàn viên tan nát..
Chàng Kim ơi!

Hân Văn – Hà Phương