“Văn tế thập loại chúng sinh”, còn được gọi là Văn chiêu hồn hay Văn tế chiêu hồn, là một sáng tác xuất sắc bằng chữ Nôm của đại thi hào Nguyễn Du thế kỷ 19. Bản cổ nhất của bài thơ được phát hiện là bản khắc ván năm 1895 của nhà sư Chính Đại, được tàng trữ ở chùa Hưng Phúc, xã Xuân Lôi, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh.
- Tiếp theo Phần 1
Trong kỳ này, chúng ta sẽ đọc tiếp phần 2 của bài thơ. Vì sao Nguyễn Du nhắc đến thập loại chúng sinh? ‘Thập’ (10) ở đây có thể hiểu là mười phần, là con số mang tính đại biểu cho hết thảy chúng sinh đang trầm luân trong bể khổ nhân gian, trong nghiệp lực do chính mình tạo ra. Vậy thì, họ là những cảnh đời nào, chúng ta hãy đọc tiếp nhé.
Phần II: Mô tả thập loại chúng sinh, nhân sinh đa đoan kết cục bi thảm
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,
Chí những lăm cướp gánh non sông,
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau.
Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa sất phu,
Lớn sang giàu nặng oán thù,
Máu tươi lai láng, xương khô rã rời.
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu than khóc đêm mưa.
Cho hay thành bại là cơ,
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan!
“Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh, Chí những lăm cướp gánh non sông”, Nguyễn Du nhìn thấy những vong hồn có lẽ từng là loạn quân phản tướng tranh hùng thiên hạ. “Binh chinh thiên hạ”, “Cường giả vi anh hùng”, dùng bạo lực đoạt thiên hạ, đó là phản lý nơi nhân gian. Còn chính lý là những gì mà tam giáo Thích Đạo Nho khuyên bảo về hành thiện tích đức, từ bỏ dục vọng, phản bổn quy chân… Con người hành xử thuận theo chính lý thì có thể an ổn bản thân, tiêu trừ tội nghiệp, đề cao tầng thứ của sinh mệnh; Trái lại, hành xử theo phản lý, chấp mê vào dục vọng, thì dù trước mắt có thể thỏa mãn chút lợi ích phù du, nhưng rồi sẽ tự hủy chính mình trong nghiệp lực chồng chất.
“Nói chi những buổi tranh hùng, Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau”, nhắn nhủ người khởi sự hãy nghĩ đến lúc thế khuất vận cùng mà kiềm chế dục vọng bản thân, bởi “Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở, Khôn đem mình làm đứa sất phu”, đến cùng đường, họ mới hiểu rằng, thà rằng cúi đầu làm một nông phu mà giữ được cái mạng. Mộng tranh bá tan rồi, tội tạo phản oán thù chồng chất giờ đến lúc phải trả giá: “Máu tươi lai láng, xương khô rã rời”.
“Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc, Quỷ không đầu than khóc đêm mưa” là cảnh tượng mà nhà thơ nhìn thấy thông qua thiên nhãn: từng đoàn quỷ lạc loài không đầu không tên, thây phơi ngoài chiến địa, khóc than phận hẩm trong đêm mưa tháng Bảy. “Cho hay thành bại là cơ, Mà cô hồn biết bao giờ cho tan!” – nhà thơ tiết lộ nguyên nhân thành bại hết thảy đều là Thiên cơ. Trời đã định ai làm vua thiên hạ, thuận Thiên ý thì thành tựu, nghịch với Thiên ý thì nỗ lực tranh hùng cuối cùng chỉ chuốc lấy thất bại, tổn mạng vô ích mà thôi.
Cũng có kẻ màn lan trướng huệ,
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới cầu nước chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi,
Khi sao đông đúc vui cười,
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn nhẽ không hương không khói,
Luống ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo, một đêm một rầu.
Nguyễn Du nhìn thấy những cô hồn từng thuộc giới quý tộc giàu sang hiển quý, bỗng chốc đổi triều hoán đại, thân phận Hằng Nga cung quế của họ sẽ bị cuốn về đâu? Mỗi triều đại đến rồi đi, khởi đầu huy hoàng tráng lệ, viết nên những thiên sử hào hùng, danh nhân và tinh hoa văn hóa của triều đại mình. Khi suy tàn, không còn năng lực dẫn dắt thiên hạ, lại nhường sân khấu cho một triều đại mới, cứ như vậy mà nối nhau phồn diễn trên vũ đài lịch sử. Mỗi lần cải triều hoán đại đều khó tránh khỏi cảnh nhà tan cửa nát, máu chảy đầu rơi. Sau cơn loạn lạc, thân phận cao quý thoắt chốc đã thành những cô hồn lang thang không ai hương khói. “Khi xưa đông đúc vui cười, Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương”, nhà thơ qua đó cũng nhắn nhủ con người hãy coi nhẹ được mất, nhân sinh chẳng qua là một vở kịch, danh lợi chỉ là phù vân thoắt đến thoắt đi, đừng chấp vào địa vị cao sang mà coi mình ở trên thiên hạ.
Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay,
Kinh luân găm một túi đầy,
Đã đêm quản cát lại ngày y chu.
Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh,
Nghìn vàng khôn đổi được mình,
Lầu ca, viện hát, tan tành còn đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước,
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
Cô hồn thất thểu dọc ngang,
Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hoá sinh.
Nhà thơ lại nói đến những vong hồn từng nắm giữ quyền uy khuynh đảo thiên hạ. Chốn quan trường mũ cao áo rộng, ngọn bút của họ có thể định đoạt sinh mạng của muôn người. “Kinh luân” là từ gốc Hán, nghĩa đen là phân loại các sợi tơ và dệt thành dây thừng, nghĩa ẩn dụ là nắm trong tay mọi việc trị lý quốc gia đại sự. “Đã đêm quản cát lại ngày y chu”, ý tứ là họ sinh thời ban ngày mũ miện chỉn chu, uy phong đạo mạo, đêm về thì an thân trong nhung lụa, chẳng đếm xỉa nỗi khổ của oan dân. Đoạn thơ nói đến những kẻ cầm quyền hám lợi, chỉ nghĩ đến bản thân, coi trăm họ như cỏ rác, tất sẽ: “Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm”, mỗi hành động vị tư, làm hại bách tính của họ không ngừng tích tụ oán thù cuồn cuộn, cho đến khi “lầu ca, viện hát, tan tành”, thì “ngàn vàng khôn đổi được mình”, họ trở thành những “Cô hồn thất thểu dọc ngang, Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hoá sinh”.
Kỳ thực, phàm là người nắm trong tay quyền lực, nếu có thể giữa chốn quan trường thị phi mà không màng danh lợi, thanh liêm vi chính, hết lòng vì dân, thì có thể tạo phúc lớn cho trăm họ, tích công đức cho bản thân, lưu lại tiếng thơm muôn thuở, trong lịch sử có rất nhiều những danh quan liêm chính như vậy.
Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung.
Gió mưa sấm sét đùng đùng,
Dãi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc,
Bãi sa trường thịt nát máu rơi,
Bơ vơ góc bể chân trời,
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao?
Trời thăm thẳm mưa gào gió thét,
Khí âm huyền mờ mịt trước sau,
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
Lại có những kẻ bài binh bố trận, thiết kế mưu sâu những mong cướp đoạt vương quyền, vì tham vọng của bản thân mình mà sẵn sàng “Dãi thây trăm họ nên công một người”. Khi thất thế, họ là hoàn cảnh gì? Nguyễn Du đã nhìn thấy cảnh tượng tên rơi đạn lạc, thịt nát máu rơi, họ trở thành nắm xương vô chủ nơi sa trường, bao quanh là bầu trời gió mưa gào thét, mờ mịt âm khí lạnh lùng. Khi xưa cuồng ngạo bao nhiêu, giờ đây đã thành nắm xương tàn phơi nơi ngàn mây nội cỏ, chẳng người điếu tế.
Cũng có kẻ tính đường trí phú,
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn,
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ,
Của phù du dẫu có như không,
Sống thời tiền chảy bạc ròng,
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quãng đồng chiêm,
Nén hương giọt nước, biết tìm vào đâu?
Tiếp theo là những vong hồn mà sinh thời, cả đời chí thú làm giàu, mải mê tích cóp, đến mức quên cả bản thân mình sống là vì điều gì. Họ vì tiền không chỉ làm khổ mình, mà còn trở nên ích kỷ không còn tình nghĩa, bỏ rơi thân bằng cố hữu, đến nỗi “ruột rà không kẻ chí thân”. Nhà thơ đặt câu hỏi: “Dẫu làm nên để dành phần cho ai?”, và khổ thơ tiếp theo chính là đáp án minh xác cho câu hỏi trên: “Khi nằm xuống không người nhắn nhủ, Của phù du dẫu có như không, Sống thời tiền chảy bạc ròng, Thác không đem được một đồng nào đi”. Trái ngược với cuộc đời phú dụ, giờ đây họ chỉ còn là những cô hồn đói khát bên nấm mồ cô quạnh bị bỏ rơi: “Ngẩn ngơ trong quãng đồng chiêm, Nén hương giọt nước, biết tìm vào đâu?”
Khuyên người đừng chấp mê vào tiền bạc phú quý. Kỳ thực, nhân gian không là thiên đường, mà là đạo trường để tu hành hồi quy. Người giàu mà biết nghĩ đến người khác, tấm lòng rộng lượng bác ái, chăm chỉ hành thiện, thì có thể giúp đỡ rất nhiều người, tạo phúc cho xã hội, đó mới là con đường chân chính giữ gìn phúc phận bền lâu.
Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý
Dấn mình vào thành thị lân la,
Mấy thu lìa cửa lìa nhà,
Văn chương đã chắc đâu mà thí thân?
Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng,
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng,
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng,
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng.
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang,
Cô hồn nhờ gửi tha phương,
Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.
Có những cô hồn từng là sĩ tử, cả đời mù quáng truy cầu sự nghiệp công danh. Rốt cuộc, họ cũng là vì không lường trước bản thân, vì chút danh vọng mà lãng phí cả một đời: “Mấy thu lìa cửa lìa nhà, Văn chương đã chắc đâu mà thí thân”. Họ theo đuổi danh hão mà chẳng thương tiếc người thân, đến khi tiền hết, bệnh tật đầy thân không người chăm nom, cuối cùng bỏ mạng nơi đất khách quê người, được người thiên hạ chôn cất qua loa, bên cạnh không ai thân thích: “Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng, Anh em thiên hạ, láng giềng người dưng”. Sống nhờ thác gửi tha hương, giờ chỉ còn lại nấm mồ lạnh lùng không ai hương lửa.
Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng,
Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê.
Cũng có kẻ đi về buôn bán,
Đòn gánh tre chín dạn hai vai,
Gặp cơn mưa nắng giữa trời,
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?
Là vong hồn của những người lao động bất hạnh, kẻ chẳng may bỏ mạng giữa cơn giông tố, người bất chợt gặp thiên tai hay bạo bệnh mà chết giữa nẻo đường.
Cũng có kẻ mắc vào khoá lính,
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,
Nước khe cơm ống gian nan,
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.
Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành đạn lạc tên rơi.
Lập loè ngọn lửa ma trơi,
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.
Đó là những vong thanh niên đi lính, chẳng may gặp phải “buổi chiến trận mạng người như rác”, khó tránh khỏi chết oan vì tên rơi đạn lạc. Nhà thơ đã nhìn thấy oan hồn họ trong cảnh tượng bi thương: “Lập loè ngọn lửa ma trơi, Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương”.
Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,
Ngẩn ngơ khi trở về già,
Đâu chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Nguyễn Du nhìn thấy cảnh đời của những vong hồn từng phiêu bạt tới chốn lầu xanh. Có lẽ họ từng là những mảnh đời éo le, như nàng Kiều bán mình chuộc cha, trẻ mồ côi hay nạn nhân của đói nghèo, chẳng có cơ may lấy chồng như những cô gái khác. Vì kế sinh nhai, họ đành nhắm mắt bán rẻ tuổi xuân trong lầu xanh, chết đi chẳng có ai hương khói. “Sống đã chịu một đời phiền não, Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,” – “Cháo lá đa” ngụ ý những linh hồn không nơi nương tựa, vào ngày “xá tội vong nhân” mới được về thụ hưởng chút bố thí của người đời. Nhìn thấy họ như vậy, nhà thơ không khỏi cảm thán những kiếp đời lầm lạc: “Đau đớn thay phận đàn bà, Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?”
Những vong hồn hành khất, lang thang nằm cầu gối đất, sống nhờ vào sự bố thí của người ta, chết đói chết bệnh giữa đường giữa chợ, và những vong hồn từng chịu oan tù tội mà chết, không biết đến kiếp nào mới được cởi oan.
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,
Thương thay cũng một kiếp người,
Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan!
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc,
Gửi mình vào chiếu rách một manh.
Nắm xương chôn rấp góc thành,
Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?
Ông cũng nhìn thấy những vong hồn trẻ nhỏ, từ tấm bé đã phải lìa mẹ lìa cha, giờ vẫn chưa thể siêu thoát. Ở không gian khác, tiếng khóc u ơ của các bé khiến nhà thơ đau lòng. Rồi lại có những người bỏ mạng trong đủ loại tai nạn chìm sông lạc suối, leo cây ngã chết, leo giếng đứt dây, gặp lũ gặp lửa mà chết, có người gặp thú dữ, có người bỏ con, có người sa sẩy mà chết, v.v…
Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé,
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha.
Lấy ai bồng bế vào ra,
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,
Cũng có người sẩy cối sa cây,
Có người leo giếng đứt dây,
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thuỷ quái
Người thì sa nanh sói ngà voi,
Có người hay đẻ không nuôi,
Có người sa sẩy, có người khốn thương.
Nhân sinh bể khổ, cũng một kiếp người mà sao quá đa đoan, người trên kẻ dưới nối nhau chung một kết cục bi thảm. Nhân loại tồn tại là vì điều gì? Liệu chúng sinh nơi nhân gian có thể tìm thấy một con đường siêu thoát khổ nạn? Bạn hãy tĩnh tâm, hồi sau sẽ rõ.
Tài liệu tham khảo: Wikipedia, Thivien,
Hương Thảo