Lời toà soạn: Các dân tộc Á Đông có một nền văn minh vô cùng xán lạn. Lịch sử Á Đông nói chung, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam, rất hào hùng, tràn đầy khí chất. Lịch sử 5000 năm văn minh, văn hoá của Á Đông là cả một kho tàng vô giá cho hậu thế. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những quan niệm mới có phần thiên kiến, lệch lạc, lịch sử ấy đã bị cải biên và nguỵ tạo nhiều. Với mong muốn phục hưng lại nền văn minh vĩ đại cũng như những truyền thống đạo đức quý báu của người Á Đông, chúng tôi tiến hành loạt bài về lịch sử Việt Nam, Trung Hoa… gửi đến quý độc giả, ngõ hầu phá giải được những quan niệm sai lệch hiện nay.
Kỳ 2: Thời đại loạn lạc
Những năm cuối thời Chiến Quốc, cục diện chư hầu cát cứ phân tranh quyết liệt được thay thế bằng việc Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ. Năm thứ 37 tại vị, Tần Thủy Hoàng trên đường tuần thú đột ngột từ trần ở Sa Khâu. Thủy Hoàng di chiếu cho công tử Phù tô chủ trì tang lễ, sau đó lập tức băng hà. Người quản lý chiếu thư là thái giám Triệu Cao cấu kết với Thừa tướng Lý Tư bức tử Phù Tô, lập con thứ Hồ Hợi lên làm Hoàng đế, tức Tần Nhị Thế.
Sau khi lên ngôi, Tần Nhị Thế lạm sát cựu thần và hoàng thân tôn thất, làm cho cơ nghiệp đế quốc đại Tần mà Thủy Hoàng gian khổ gây dựng trở nên lung lay dữ dội. Năm thứ nhất đời Nhị Thế (năm 210 TCN), Trần Thắng, Ngô Quảng nổi dậy tại làng Đại Trạch thống lĩnh 900 dân binh trảm mộc làm binh, giương tre làm cờ, thách thức sự thống trị của Nhị Thế. Họ thành lập chính quyền ở đất Trần, quốc hiệu là Sở, còn gọi là Trương Sở. Khắp nơi nhân sĩ phản Tần thừa thế nổi lên, liên tiếp tổ chức lực lượng, phút chốc quần hùng cát cứ, lửa cấp báo suốt ngày, dường như quay lại thời kỳ Chiến Quốc chư hầu quyết liệt phân tranh.
Trượng kiếm tòng quân
Trong đám quần hùng, Hàn Tín để mắt tới chú cháu Hạng Lương, Hạng Vũ bởi thân thế hiển hách, binh tinh tướng cường. Hạng Lương là con của danh tướng nước Sở Hạng Yên, vì giết người mà phải trốn đến đất Ngô, vốn có uy tín rất cao, hiền sĩ đại phu đều về cả dưới trướng. Hạng Lương nhờ thế cũng âm thầm chiêu binh mãi mã, rèn luyện quân sĩ.
Sau khi Trần Thắng, Ngô Quảng dấy binh khởi nghĩa được 2 tháng, ở đất Ngô, chú cháu Hạng Lương dẫn 8 nghìn quân hưởng ứng, từ Giang Đông vượt sông tiến lên, dọc đường thu thêm các tướng Trần Anh, Anh Bố, Lữ Thần, Bồ tướng quân cùng quân bản bộ chiếm cứ Bành Thành, phía đông Tần Gia quận. Vào lúc này, Lưu Bang và Hàn Tín cũng cùng tham gia vào đội ngũ của Hạng Lương.
Không lâu sau đó Ngô Quảng bị thuộc hạ giết. Tháng 12 năm ấy, tướng Tần là Chương Hàm dẫn quân phá đất Trần. Trần Thắng bị người phu xe giết, nước Trương Sở bị diệt. Hạng Lương nghe theo kiến nghị của Phạm Tăng, lập người cháu của Sở Hoài Vương tên là Tâm làm chủ, còn mình làm Vũ Tín Quân.
Sau khi Chương Hàm đánh bại quân Trương Sở liền dẫn binh công Ngụy. Ngụy vương cầu cứu nước Tề. Chương Hàm lại đánh bại liên quân Tề – Sở, truy kích tướng Tề là Điền Vinh đến tận thành Đông A. Hạng Lương nghe tin Điền Vinh nguy cấp, lập tức dẫn binh cứu viện, đánh phá quân Tần. Chương Hàm rút chạy về mặt tây. Hạng Lương dẫn binh truy kích, tại Bộc Dương đánh bại Chương Hàm, cuối cùng đuổi tới tận Định Đào. Ở một hướng khác Hạng Vũ, Lưu Bang đại thắng quân Tần ở Ung Khâu, chém được đầu tướng Tần là Lý Do.
Quân Tần liên tiếp thất bại. Chương Hàm điều 10 vạn đại quân bổ sung binh lực. Hạng Lương do thắng mà kiêu, đối với việc này không hề phản ứng. Hàn Tín nhìn thấy nguy hiểm nhưng vì địa vị thấp bé không có cơ hội can gián. Mưu sĩ Tống Nghĩa của Hạng Lương cũng nhìn thấy nguy hiểm tiềm ẩn, khuyên gián Hạng Lương dự phòng quân Tần tập kích. Hạng Lương không cho là phải. Quân Tần sĩ khí hừng hực, thừa cơ Hạng Lương không phòng bị đột nhiên tập kích, tiêu diệt đại bộ phận quân của Hạng Lương. Bản thân Hạng Lương tử trận.
Hạng Vũ xuất thế
Sau khi Hạng Lương chết, quân đội do Hạng Vũ thống lĩnh. Hạng Vũ mình cao hơn tám thước, sức nâng cửu đỉnh, tài trí hơn người, là một tướng quân vũ dũng nổi tiếng trong lịch sử, được người thời sau khen là: “Vũ chi thần dũng, thiên cổ vô nhị” (đại ý là: dũng tướng có một không hai xưa nay).
Thời thiếu niên, Hạng Vũ thấy Tần thủy Hoàng đi tuần, tiền hô hậu ủng, vạn người kính ngưỡng, liền đầy tự mãn nói với Hạng Lương: “Có thể thay người đó được”. Hạng Vũ thấy Hàn Tín cao to oai hùng, liền bổ nhiệm làm quan chấp kích thị vệ lang (tức là một chức quan nhỏ chuyên vác kích). Vì vậy Hàn Tín có cơ hội tiếp xúc gần gũi với Hạng Vũ.
Sau trận đại chiến ở Định Đào, Sở Hoài Vương e sợ quân Sở sĩ khí sa sút nên lệnh cho Hạng Vũ rút quân về Bành Thành để tiến lui nương tựa lẫn nhau. Bên phía quân Tần, Chương Hàm thấy nhất thời khó thắng quân Sở nên chuyển lên hướng bắc đánh nước Triệu. Triệu vương bị vây khốn ở Cự Lộc, cầu cứu chư hầu. Tề quốc, Yên quốc đều phái viện binh. Đại tướng Trần Dư và tướng quốc Trương Ngao nước Triệu cũng đem binh tới. Nhưng dưới miệng hùm của đại quân Chương Hàm, không ai dám khiêu chiến quân Tần. “Quân chư hầu cứu viện Cự Lộc hơn 10 doanh trại chỉ đắp lũy không dám tung binh” (Sử ký – Hạng Vũ bản kỷ).
Mùa đông năm thứ 3 thời Tần Nhị Thế, Sở Hoài Vương phái 2 đường viện quân. Đường thứ nhất do Tống Nghĩa làm thượng tướng quân, Hạng Vũ làm phó tướng dẫn 5 vạn quân cứu viện nước Triệu. Một đường khác do Lưu Bang làm tướng, tiến binh đánh Hàm Dương. Lại cùng ước định, ai lấy được Quan Trung trước thì làm vương.
Tống Nghĩa tới An Dương, lưu lại 46 ngày không đi, muốn chờ xem Tần – Triệu đánh nhau để “ngư ông đắc lợi”. Không có viện quân khẳng định là Triệu quốc không phải là địch thủ của Chương Hàm. Nếu như Chương Hàm giải quyết xong Triệu quốc thì mục tiêu tiếp theo sẽ là nước Sở vừa bại trận. Lúc đó ở An Dương trời mưa giá lạnh, quân Sở thiếu lương, binh sĩ đói rét, kéo dài như vậy tất có đại biến. Hạng Vũ nhiều lần khuyên gián bắc tiến cứu Triệu đều bị Tống Nghĩa cự tuyệt, lại ra lệnh trong quân ai không nghe lệnh thì chém. Hạng Vũ cùng bất đắc dĩ liền giết Tống Nghĩa, tự đảm nhận chức thượng tướng quân. Sở Hoài Vương ngoài tầm kiểm soát cũng đành chấp nhận.
Số lượng quân Sở ít hơn quân Tần rất nhiều, các lộ viện quân đều sợ thanh thế quân Tần, các trại đều phòng thủ đắp lũy đứng xem. Hạng Vũ chỉ còn cách độc lập tác chiến. Hạng Vũ trầm tĩnh điều binh, đầu tiên phái Anh Bố lĩnh 2 vạn quân Sở cắt đứt đường ứng cứu giữa Chương Hàm và các cánh quân khác, còn tự mình dẫn 3 vạn binh sĩ vượt sông. Sử Ký – Hạng Vũ bản kỷ chép Hạng Vũ: “Sau đó đánh chìm tất cả thuyền, đập nồi, phá bếp, chỉ mang 3 ngày lương thực, biểu thị sĩ tốt liều chết, không thay lòng“. Không có đường về, sĩ tốt chỉ có cách liều chết mà đánh. Thành ngữ “đập nồi đắm thuyền” là do đó mà có.
Tới Cự Lộc, quân Sở nhanh như chớp bao vây quân Tần, toàn quân lấy 1 địch 10, Hạng Vũ tự thân xông xáo trận tiền chém giết, “tiếng hét của Hạng Vũ kinh thiên động địa” (Tiền Hán Ký). Quân Sở càng đánh càng hăng, đánh cho quân Tần kinh tâm động phách, tới cuối quân Sở đánh 9 trận, thắng cả 9. Tướng Tần là Tô Giác tử trận, Vương Ly bị bắt, Thiệp Nhàn không chịu hàng đã tự thiêu.
Quân cứu viện chư hầu đứng xem từ đầu đến cuối không khỏi kinh ngạc, cho tới khi quân Tần thua chạy mới xông ra khỏi trại trợ chiến, giải vây cho Cự Lộc. Hạng Vũ từng bước ép mạnh, Chương Hàng liên tiếp thua chạy. Cuối cùng vào tháng 7 năm thứ 3 Tần Nhị Thế, tại Ân Khư, Chương Hàm cùng 20 vạn quân Tần đầu hàng Hạng Vũ. Đội quân chủ lực của Tần đã từng diệt 6 nước, đánh bại Hung Nô hùng mạnh, giờ lại bị Hạng Vũ diệt tan thành mây khói.
Chiến tranh kết thúc, Hạng Vũ triệu kiến các tướng lĩnh chư hầu. Các tướng quỳ gối mà vào, không dám ngước nhìn. Triệu Vương cũng tới bái kiến, quỳ lạy ơn cứu giúp của Hạng Vũ. Hạng Vũ được phong làm Thượng tướng quân, thống soái các lộ quân của chư hầu.
Lưu Bang nhập quan
Mặc dù Hạng Vũ đã giải quyết xong quân chủ lực nhà Tần, trở thành chư hầu Thượng tướng quân nhưng người đầu tiên chiếm được Hàm Dương, kinh đô nước Tần lại là Lưu Bang.
Lưu Bang, người ấp Phong, quận Bái, xuất thân bình dân, 48 tuổi khởi binh ở huyện Bái nên còn gọi là Bái Công. Thời thanh niên cả ngày rong chơi, vô công rồi nghề, giao du với một đám du thủ du thực, lại thêm có thói vung tay quá trán. Nhưng ông có khả năng thuyết phục phục nên rất được lòng người, sau làm tới đình trưởng ở Tứ Thủy.
Lưu Bang không thích đọc sách, trong bụng coi thường những kẻ đọc sách. Sử ký chép, có lần một thư sinh nho quan tới cầu kiến bị Lưu Bang lột mũ tiểu vào và chửi mắng. Năm đó lại có Lệ Thực Kỳ (có bản dịch là Lịch Tự Cơ) tới cầu kiến. Người nhà nói là người đọc sách, Lưu Bang không tiếp. Cuối cùng Lệ Thực Kỳ tự nhận là Cao Dương tửu đồ, Lưu Bang vội vàng mời vào tương kiến hoan hỷ. Sở trường của ông là dùng quyền mưu, mưu sâu kế hiểm, gió chiều nào che chiều ấy, biết cách khống chế những thuộc hạ có năng lực nên thủ hạ cũng có không ít kẻ tài năng, tỏ ra xuất chúng trong việc cướp công sức thành quả của người.
Trong lúc Hạng Vũ cùng quân Tần trực diện giao tranh kịch liệt, phá vòng vây nguy hiểm thì Lưu Bang dẫn binh đột nhập Quan Trung. Lúc đó Triệu Cao đã giết Tần Nhị Thế. Sau đó Tử Anh lại giết Triệu Cao, tự xưng là Tần Vương. Lưu Bang tiến đánh Hàm Dương, Tử Anh không có khả năng chống cự nên đành lên xe ngựa trắng, treo cờ rủ, đi đường nhỏ, tự thân bưng Hoàng đế ngọc tỷ và phù tiết dâng nộp Lưu Bang đầu hàng. Tần triều diệt vong từ đấy.
Lưu Bang vào trong thành Hàm Dương, nhìn thấy cung điện nguy nga tráng lệ và những thứ Hoàng đế chuyên dùng như màn trướng, xe ngựa, trùng trùng báu vật và phụ nữ, ngẩn người không muốn rời xa, hoàn toàn quên khuấy bên ngoài cục diện loạn lạc miệng hùm nanh sói. Lưu Bang tính nghỉ ngơi, ở lại trong cung. Phàn Khoái và Trương Lương đã rất vất vả luân phiên khuyên giải, cuối cùng thuyết phục được Lưu Bang niêm phong hoàng cung và quốc khố, đến Bá Thượng đóng quân. Lại theo kiến nghị của Tiêu Hà tuyên bố 3 điều: giết người đền mạng, hại người, trộm cướp đền tội, đồng thời phế bỏ Tần luật, còn các phương diện khác như bình thường. “Người Tần rất mừng, tranh mang bò dê rượu khoản đãi quân sĩ” (Sử Ký – Cao tổ bản kỷ).
Hạng Vũ trực diện chiến đấu, vào sinh ra tử nhưng thành quả thắng lợi lại bị Lưu Bang nẫng mất, phẫn uất không thể bỏ qua, lập tức dẫn đại quân 40 vạn tiến gấp về Quan Trung, đóng quân ngoài cửa Hồng môn thành Hàm Đan. Mưu sĩ Phạm Tăng hiến kế, nói: “Lưu Bang ở Quan Đông vốn tham tài háo sắc, giờ không lấy tài vật, không luyến mỹ nữ, có thể thấy dã tâm không nhỏ, nên sớm diệt trừ“. Tả Tư mã của Lưu Bang là Tào Vô Thương cũng phái người tới báo tin chứng thực là Lưu Bang có tâm xưng Vương. Hạng Vũ lập tức hạ lệnh sáng sớm tiến công.
Toàn bộ binh lực của Lưu Bang có 10 vạn, lại không tinh nhuệ như quân Sở. Nếu như hai bên đối địch, không cần đánh cũng biết kết quả. Chú của Hạng Vũ là Hạng Bá để báo đáp ân cứu mạng của Trương Lương, suốt đêm phi ngựa tới Bá Thượng tìm Trương Lương báo tin. Trương Lương không muốn một mình thoát thân nên lập tức báo Lưu Bang. Lưu Bang nghe xong thất kinh biến sắc, nhất thời tay chân bủn rủn, vô lực.
So sánh lực lượng quá chênh lệch, chỉ còn cách tỏ thế yếu nhược van xin là thượng sách. Sau khi Lưu Bang cùng Trương Lương thương nghị vắn tắt lập tức mời Hạng Bá vào trướng, kính rượu hàn huyên, lại còn hứa gả con gái cho Hạng Bá kết làm thân gia. Nhân lúc chuyện trò vui vẻ, Lưu Bang nói rõ mình vốn không có dã tâm xưng vương, tất cả những việc đã làm ở Quan Trung đều là để chuẩn bị đón Hạng Vũ.
Hạng Bá hứa sẽ về nói rõ lại với Hạng Vũ, lại còn dặn Lưu Bang ngày hôm sau nên đích thân đến bái tạ Hạng Vũ. Hạng Vũ trong tay nắm trọng binh, xem thường thiên hạ, vốn dĩ cũng không đặt Lưu Bang vào tầm ngắm, lại thêm Hạng Bá xảo biện, nói vài câu câu liền động tâm, bỏ kế hoạch tấn công Bá Thượng.
Ngày thứ 2, Lưu Bang đem theo Trương Lương và tướng quân Phàn Khoái tự thân tới Hồng Môn, biểu thị là mình chỉ trông coi Hàm Dương đợi Hạng Vũ tới xưng vương. Hạng Vũ tin tưởng Lưu Bang, thiết tiệc chiêu đãi. Phạm Tăng, vốn được Hạng Vũ tôn kính gọi là á phụ (cha nuôi) vẫn thủy chung cho rằng Lưu Bang là mầm đại họa, kiên trì muốn lấy mạng ông ta, nhổ cỏ tận gốc, trừ tuyệt hậu họa. Đó chính là bữa tiệc với một trường sát khí nổi tiếng trong lịch sử: “Hồng Môn yến”.
Trong tiệc, Phạm Tăng ngồi bên mấy lần ám thị Hạng Vũ động thủ giết Lưu Bang, nhưng Hạng Vũ đều vờ như không thấy. Phạm Tăng sai đại tướng quân Hạng Trang tới trước bàn rượu múa kiếm góp vui, tìm cơ hội giết Lưu Bang. Hạng Bá vội vàng rút kiếm cùng múa, lại lấy thân mình che cho Lưu Bang khiến cho Hạng Trang không cách nào ra tay nổi.
Trương Lương thấy tình thế cấp bách, vội ra ngoài gọi Phàn Khoái. Phàn Khoái trước kiếm sống bằng nghề giết chó, là bộ hạ dũng mãnh nhất của Lưu Bang. Nghe thấy Lưu Bang gặp nạn, Phàn Khoái tay cầm khiên và kiếm xông vào trướng. Binh sĩ thủ vệ muốn ngăn trở, Phàn Khoái dùng khiên đẩy một cái, vệ binh đều ngã nhào trên đất.
Phàn Khoái vén màn che trướng, trừng mắt nhìn Hạng Vũ, tóc tai dựng ngược, mí mắt như muốn rách, trách cứ Hạng Vũ: “Lưu Bang hạ xong Hàm Dương, không chiếm đất xưng vương, mà quay về Bá Thượng, đợi đại vương đến. Một người có công như vậy, vẫn chưa được phong thưởng gì, ngài lại nghe lời tiểu nhân muốn giết người anh em của mình!”. Hạng vũ nghe xong trong lòng hổ thẹn. Lưu Bang thừa cơ giả đi vệ sinh, đem theo tùy tùng chạy về doanh trại Bá Thượng.
Mưu sĩ Phạm Tăng thấy Hạng Vũ nhu mì không quyết, để xổng Lưu Bang, phẫn khí tuyệt vọng, thở dài nói: “Ầy, thằng bé này đúng là không thể cùng bàn mưu đại sự. Đoạt thiên hạ của Hạng vương tất là Bái công. Chúng ta rồi sẽ bị bắt làm tù thôi”. (Sử ký – Hạng Vũ kỷ). Lưu Bang về tới trong quân liền xử chết Tào Vô Thương. “Hồng Môn yến” sau này trở thành từ chỉ buổi yến hội không có ý tốt. Cũng từ đó mà có thành ngữ “Hạng Trang múa kiếm, ý tại Bái công”.
Theo Đại Kỷ Nguyên Tiếng Trung
Đạo Nhất biên dịch
Xem thêm: