Lão Tử đã minh xác chỉ ra, tu đạo tu đức có thể tu tại các hoàn cảnh xã hội của các tầng diện khác nhau như tu tại “thân, gia, hương, quốc và thiên hạ”, chính là nhìn vào đạo hành và cảnh giới của bản thân…
Đông sắp tận, Xuân đang đến. Mấy hôm trước tôi có đọc một bài thơ “Thi Kinh – Đào Yêu” mà mọi người có lẽ không còn quen thuộc nữa:
Đào chi yêu yêu, chước chước kỳ hoa, chi tử vu quy, nghi kỳ thất gia.
Đào chi yêu yêu, hữu phần kỳ thực, chi tử vu quy, nghi kỳ gia thất.
Đào chi yêu yêu, kỳ diệp trăn trăn, nghi kỳ gia nhân.
Tạm dịch
Cành đào xinh tươi, hoa nở rực rỡ, dâu rể vu quy, thất gia hòa thuận
Cành đào xinh tươi, tỏa chút hương thơm, dâu rể vu quy, gia thất hòa thuận.
Cành đào xinh tươi, lá trổ xum xuê, dâu rể vu quy, gia nhân hòa thuận
Đọc đi đọc lại, tôi cảm thấy xuân ý của “Đào yêu” trên thế gian đang thực sự đến. Đồng thời, tôi cũng liên tưởng đến một thành ngữ đồng âm với “Đào chi yêu yêu”. Kể từ trận đại dịch năm Canh Tý đến nay, khi năm Quý Mão sắp đến, có bao nhiêu người trên thế gian vẫn đang trong kiếp nạn, và bao nhiêu người vẫn còn đang tránh nạn? Suy tư về điều đó, trong tâm tôi đột nhiên thức ngộ, tại nhân gian, thời điểm “Đông dần tận, Xuân sắp đến”, chúng ta có thể chạy đến nơi nào đó tránh nạn, hoặc trở về với “gia đình”. Mà từ này vừa hợp với thi ý của “Đào yêu”. Bài thơ “Đào yêu” phân thành 3 chương, câu thứ ba của mỗi chương đều là “chi tử vu quy”, nói với chúng ta ngày xuân có tục lệ trở về gia đình, tiếp câu kết đều là có quan hệ với chữ “gia”, quả thực có thể gọi là: Thuận gia thuận thất cũng thuận nhân, phúc thiên phúc địa càng phúc niên. “Gia nhân” (người nhà) và “gia thất” (mái ấm) đại biểu cho nhận thức đơn giản nhất, trực quan nhất và thân cận nhất của chúng ta đối với “gia đình”. Cũng giống như chúng ta hiện tại thường đề cập đến từ “gia”, tự nhiên liền sẽ liên hệ đến “gia nhân” và “gia thất” với phòng ốc và bài trí của mái ấm gia đình, là một hoàn cảnh cư ngụ cùng với những người thân, tổ thành một “gia đình”. Có thể nói, gia đình là đơn vị tổ chức cơ bản ổn định nhất, hoàn thiện nhất, kiên cố nhất trên thế giới từ cổ chí kim, chính là một tổ chức tế bào căn bản của xã hội. Bí ẩn về nguồn gốc xã hội của “gia đình” vẫn khiến rất nhiều các nhà xã hội học tham thảo và truy tầm.
“Gia đình” là tổ chức đơn vị căn bản nhất trong đời sống xã hội, tác dụng đạo đức và công năng xã hội của nó có rất nhiều tầng diện nội hàm văn hóa. Người viết do học thức có hạn, vì vậy tôi muốn thử từ hai phương diện trong nội hàm văn hóa Trung Hoa mà mọi người quen thuộc nhất để đưa ra một cách giải thích khác.
“Gia đình” là đạo trường tu hành
Tôi tin rằng mọi người đều rất quen thuộc với đoạn giáo hối kinh điển nhất trong “Lễ Ký – Đại Học” của Nho gia, tạm dịch là:
“Từ xưa, muốn minh đức soi sáng thiên hạ, trước tiên phải trị quốc; muốn trị quốc trước tiên phải tề gia; muốn tề gia trước tiên phải tu thân; muốn tu thân trước tiên phải tu tâm, muốn tu tâm trước tiên phải tu ý, muốn tu ý trước tiên phải đạt tới chí tri (hiểu biết tới cùng), chí tri tại cách vật (hiểu biết tới cùng đạo lý của sự vật). Sự vật mà hiểu biết tới cùng rồi thì sẽ có thành ý, sau thành ý sẽ có tâm [ngay] chính, sau tâm [ngay] chính sẽ có [bản] thân tu [dưỡng], sau [bản] thân tu [dưỡng] sẽ có gia [đình] tề [chỉnh], sau gia [đình] tề [chỉnh] sẽ có quốc [gia] trị [an], sau quốc [gia] trị [an] sẽ có thiên hạ thái bình. Từ Thiên Tử cho đến thứ dân, thứ nhất đều phải lấy tu thân làm căn bản.”
Đây chính là tám mục của “nội thánh, ngoại vương” nổi tiếng của Nho gia: cách vật (tìm hiểu đạo lý của sự vật), chí tri (hiểu biết tới cùng), thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Trong số đó, “cách vật, chí tri, thành ý, chính tâm” được coi là “nội thánh chi nghiệp”, và “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” được coi là “ngoại vương chi nghiệp”. “Nội thánh” chính là hướng đến tu hành và tu luyện nội tâm, thăng hoa cảnh giới đạo đức và trí huệ kỹ năng của bản thân. “Ngoại vương” chính là hướng ngoại thi đức hành đạo, cảm hóa nhân tâm, thuần tịnh phong tục. Nho gia tu hành, tận tâm lực sống có đức với cá nhân, gia đình, quốc gia và thiên hạ tại các chủng loại tầng diện xã hội. Trong đó, ý nghĩa của “tề gia” chính là quản lý giáo dưỡng tốt gia đình mình. Do đó, Nho gia đặc biệt giảng giải liên quan đến đạo lý lễ nghĩa của “đạo phu thê”, “đạo phụ tử”, “đạo mẫu nữ”, “đạo gia tộc” v.v.
“Đạo Đức Kinh ‧ Ngũ Thập Tứ Chương” của Lão Tử cũng nói: “Tu chi ư thân, kì đức nãi chân; Tu chi ư gia, kì đức nãi dư; Tu chi ư hương, kì đức nãi trường; Tu chi ư quốc, kì đức nãi phong; Tu chi ư thiên hạ, kì đức nãi phổ. Cố dĩ thân quán thân, dĩ gia quán gia, dĩ hương quán hương, dĩ quốc quán quốc, dĩ thiên hạ quán thiên hạ.”
Khi tra cứu đoạn văn này trong “Đạo Đức Kinh”, tôi mới chợt ngộ ra: Hóa ra tư tưởng “tề gia trị quốc bình thiên hạ” của Nho gia đã có từ lâu đời trong nội hàm tu luyện của Đạo gia. Trong tình huống thông thường, chúng ta thường nghĩ rằng, Đạo gia tu hành là lấy mô thức vượt lên khỏi phong phạm của thế gian làm khuôn phép căn bản. Theo cách nhìn trước kia, nói đến “tu hành” và “tu luyện”, thông thường đều nhận định rằng cần phải xuất gia, cần phải vào chùa hoặc đạo quán, cần phải ẩn cư độc tu v.v., hết thảy đều cần tránh né thế tục. Bây giờ nhìn lại, e rằng đây chỉ là một trong những biểu hiện của một loại trong số những hình thức tu hành. Trên thực tế, tu hành và tu luyện của Đạo gia cũng có tâm hoài nhập thế gian như vậy. Lão Tử đã minh xác chỉ ra, tu đạo tu đức có thể tu tại các hoàn cảnh xã hội của các tầng diện khác nhau như tu tại “thân, gia, hương, quốc và thiên hạ”, chính là nhìn vào đạo hành và cảnh giới của bản thân. “Đạo Đức Kinh”, một bộ kinh điển giảng đạo, mục đích cũng là vì giáo hóa chúng sinh, hoằng đạo tu đức. Một vị Thánh nhân có đạo, một vị cao nhân tu đức, tại các tầng diện đạo thuật khác nhau cũng mang đến năng lượng xã hội chính diện và uẩn hàm văn hóa, trong các phương diện cuộc sống mà mang đến tinh thần thuần tịnh và phẩm chất cao thượng.
Bất luận là tu hành và tu luyện của Nho gia hay Đạo gia, hoàn toàn có thể lấy xã hội làm đạo trường tu hành, bất kể thuộc tầng diện xã hội thế nào, cuộc sống xã hội đều khả dĩ là những đạo trường để tu hành và tu luyện trong đó. “Gia đình” không chỉ là kết cấu tổ chức của đơn vị cơ bản của xã hội, mà còn là một trong những đạo trường tu hành thực sự trong suốt các thời đại từ cổ chí kim. Chỉ bất quá là, từ góc độ nội hàm văn hóa của tu hành, Nho gia tu hành tại gia chủ yếu tập trung vào “hiếu và từ bi”, trong khi Đạo gia tu hành chủ yếu tập trung vào “Đạo và Đức”.
“Gia đình” là căn cơ trật tự cơ bản nhất trong thời đại thiên hạ “Đại Đạo ẩn thế”
Có lẽ nhiều người đều biết về cuộc thảo luận về trạng thái xã hội “đại đồng” và “tiểu khang” của Khổng Tử, đây là một luận thuật xã hội phi thường nổi tiếng, đối với người Trung Quốc mà nói, nó còn là một tri thức căn bản về văn hóa truyền thống lịch sử. Để thuyết minh chuẩn xác hơn lý niệm về xã hội “đại đồng” và “tiểu khang”, chúng ta hãy bắt đầu với thuyết minh mô tả trong “Lễ Ký ·Lễ Vận”:
“Đại Đạo chi hành dã, thiên hạ vi công – Khi thực hành Đại Đạo, thiên hạ là vì mọi người. Tuyển chọn đề bạt người có phẩm đức cao thượng và năng lực, giảng cầu thành tín, có tu dưỡng và hòa thuận. Do đó người ta không chỉ đơn giản là phụng dưỡng cha mẹ của mình, không chỉ vỗ về dạy dỗ con cái của mình, mà cần tạo điều kiện cho người già có thể sống hết thọ mệnh, người trung niên được phụng sự xã hội, trẻ em được thuận lợi trưởng thành, ông già không vợ, bà già không chồng, trẻ em mồ côi, người già không con cháu, người tàn tật đều có thể được cung dưỡng. Nam có chức vụ, nữ có nơi quy tụ. Đối với tiền tài của cải, người ta ghét hành vi phung phí, nhưng không tư tàng cho bản thân, mọi người đều nguyện ý vì công chúng mà dốc toàn lực, mà không nhất định vì mục đích tư lợi. Do đó, những âm mưu gian tà sẽ không phát sinh, những sự tình trộm cắp, tạo phản và hại người sẽ không phát sinh. Do đó cửa nhà không cần phải đóng. Đây gọi là xã hội ‘đại đồng’ lý tưởng.”
“Bây giờ Đại Đạo ẩn thế, thiên hạ vi gia, mọi người coi người thân của mình mới là người thân, coi con cái của mình mới là con cái, tài vật và sức lao động của mình đều là sở hữu tư nhân, coi thế nhân đại chúng chỉ như là lễ nghi. Quyền lực của chư hầu thiên tử biến thành cha truyền con nối, trở thành lễ chế danh chính ngôn thuận, xây dựng thành quách kiên cố để phòng thủ. Chế định lễ nghĩa thành chuẩn tắc, dùng để chế định quan hệ vua tôi, khiến quan hệ cha con thuần hậu, quan hệ anh em hòa thuận, quan hệ vợ chồng hòa hợp, khiến các loại chế độ được xác lập, chia ruộng đất và nhà ở, tôn trọng người hữu dũng hữu trí, vì bản thân mà kiến công lập nghiệp, âm mưu quỷ kế cũng vì thế mà nổi lên, chiến tranh cũng vì thế mà sản sinh. Hạ Vũ, Thương Thang, Chu Văn Vương, Chu Vũ Vương, Chu Thành Vương và Chu Công Đán nhờ vậy mà thành nhân vật kiệt xuất tam đại. Sáu vị vua này, không có ai không cẩn thận phụng hành lễ chế. Dùng nội hàm lễ chế của họ để khảo sát tín nhiệm của mọi người, yết lộ những sai lầm, thiết lập điển phạm lễ nghi, hướng tới bách tính tuyên bố lễ pháp, đây gọi là xã hội ‘tiểu khang’.”
Lễ Kì – Lễ Vận
Khổng Tử mô tả hai loại hình thái xã hội: đại đồng và tiểu khang. Vậy, nền tảng của các tiêu chuẩn giá trị xã hội của “đại đồng” và “tiểu khang” là gì? Nền tảng này chính là sự sai biệt giữa “hành thế” và “ẩn thế” của Đại Đạo. Vậy thì, “Đại Đạo” là gì? Rõ ràng, bất luận đứng ở góc độ tư tưởng Nho gia hay Đạo gia, “Đại Đạo” đều tương đương với một cảnh giới và trí huệ chỉ có thể quan sát và thể ngộ thông qua thực hành đạo đức của “tu hành” hay “tu luyện”; Ở góc độ triết học mà xét, Đại Đạo chính là nguồn gốc và căn bản của tạo hóa thiên địa vạn vật. Ở góc độ Thần học mà xét, Đại Đạo chính là pháp tắc và chân lý chí cao chí thượng mà thiên địa nhân thần đều phải tôn trọng phục tùng. Bất luận thế nào, đối với lý giải về “Đại Đạo”, là không thể thoát ly nội hàm của văn hóa Thần truyền và văn hóa tu luyện căn bản của Trung Quốc, càng không thể coi “Đại Đạo” cục hạn trong thuyết minh chung chung về quy luật vũ trụ trong giác độ của khoa học. Bởi vì, bản thân thể hệ khoa học hiện nay chưa hề có nội dung về tu hành và tu luyện, do đó nó không cách nào giới định và lý giải có tính hoàn chỉnh về ý nghĩa sở tại chân thực của tu hành và tu luyện.
Khổng Tử tin rằng: Nếu Đại Đạo được thực hành trên thế gian (Đại Đạo hành thế) thì sẽ xuất hiện một trạng thái xã hội “thiên hạ vì đại chúng” (thiên hạ vi công). Nếu Đại Đạo ẩn lánh thế gian (Đại Đạo ẩn thế) thì sẽ xảy ra trạng thái xã hội thiên hạ vì gia đình (thiên hạ vi gia).
Làm thế nào có thể được coi là “Đại Đạo hành thế”? Đó chính là trạng thái đạo đức của cá nhân và quần thể trong chỉnh thể xã hội đã đạt đến trình độ tu dưỡng cực cao, thậm chí có thể nói rằng, dường như toàn bộ dân chúng của chỉnh thể xã hội đều ở trong trạng thái tu hành và tu luyện tương đối cao.
Vì vậy mà nói, chữ “công” trong “thiên hạ vi công” là một loại cảnh giới đạo đức của “công chính, công bình, công thuận”. Một số người thời hiện đại giải thích chữ “công” trong “thiên hạ vi công” có nghĩa là “công hữu hóa, cộng hữu hóa”, kỳ thực là do họ đã mắc vào cái bẫy của hình thái ý thức xã hội chủ nghĩa trong xã hội hiện đại. Bởi vì, trong tư tưởng của hệ thống xã hội chủ nghĩa không có nội hàm “tu luyện chính đạo đại pháp”, mà trái lại được kiến lập dựa trên cơ sở lý luận “vô thần” và “phản chính tín, phản tu luyện”, thứ nó tôn sùng là chủ nghĩa bình đẳng vật chất hóa và cơ cấu tập quyền cao độ của đảng và chính phủ, mục tiêu là theo đuổi trạng thái xã hội “không tưởng” tà ác của ham muốn dục vọng và chiếm hữu vật chất. Khổng Tử khi mô tả trạng thái xã hội “thiên hạ vi công” là không phủ nhận tính khác biệt, dị biệt của các tình huống bất đồng của xã hội nhân loại, ví như: sự khác biệt giữa nam và nữ, sự khác biệt giữa tài lực của mọi người, sự khác biệt về giai tầng xã hội, sự khác biệt về năng lực công tác, sự khác biệt về trạng thái sinh hoạt, sự khác biệt về cảnh giới tư tưởng… của mọi người. Khổng Tử trong mô tả trạng thái xã hội “Thiên hạ vi công” không phải là nói rằng cần tiêu diệt hoặc tiêu trừ những sự khác biệt đó, mà là luôn khẳng định sự tồn tại của những khác biệt này, mà những sự khác biệt này là trong tình huống “công” mà hoàn thành quản trị phối hợp. Do đó nói, “công” của “Thiên hạ vi công” không phải là xã hội vật chất hóa của “cộng hữu hóa” và “công hữu hóa”, mà là xã hội có cảnh giới đạo đức của “công chính, công bình, công thuận”; Sau khi có được cảnh giới đạo đức như vậy, sẽ hình thành ảnh hưởng cường đại tại xã hội, thậm chí có thể tự nhiên mà phát triển tính tự chủ, từ bi tương trợ của dân chúng xã hội, nhờ đó hình thành một xã hội công chính có tính tự phát và tự cảm. Chỉ khi “Đại Đạo hành thế”, mới khả năng có trạng thái xã hội “Thiên hạ vi công”, mới có thể gọi là “đại đồng”.
Khi toàn xã hội không đạt được đến “thiên hạ vi công”, thì “thiên hạ vi gia” sẽ duy trì được truyền thống đạo đức và trật tự xã hội của văn minh nhân loại.
Khổng Tử nói rằng khi “Đại Đạo ẩn thế” (Đại Đạo ẩn lánh thế gian) thì chính là trạng thái “thiên hạ vi gia” (thiên hạ vì gia đình). Bằng cách tương tự, Khổng Tử cũng lấy trạng thái đạo đức để mô tả xã hội “tiểu khang” trong thời đại “Đại Đạo ẩn thế”. Ví dụ, các giai tầng khác nhau trong xã hội đều lấy “gia đình” làm cốt lõi, họ chăm lo cho gia đình và con cái của họ; tài sản và nhân lực tương ứng đều được coi là sở hữu của riêng họ; hiện tượng kế thừa gia tộc được coi là lễ chế mà trời đất công nhận; xuất hiện quyền lực và giới tuyến của thành bang và quốc gia; sử dụng biểu tượng quy tắc lễ nghĩa và đạo nghĩa để duy hộ quy phạm và chuẩn tắc đời sống xã hội, do đó dẫn tới các chuẩn tắc quan hệ và yêu cầu đạo đức có tính trật tự và đẳng cấp như quân thần, phụ tử, huynh đệ, phu thê v.v.; kiến lập các chủng các dạng chế độ xã hội, phân chia các loại quyền sở hữu đất đai và tài sản; coi trọng người dũng mãnh và thông minh, có công lao sẽ được phần hơn; do đó xã hội sản sinh các chủng tư tưởng mưu lược toan tính chiếm hữu, giữa chúng thường có các chủng loại hình đấu tranh và chiến tranh. Khổng Tử nhận định, trong thời đại “Đại Đạo ẩn thế”, người mà thể hiện ra phương diện chính diện được gọi là “quân tử”, như “Vũ, Thang, Văn, Vũ, Thành Vương, Chu Công” mới là anh hùng thiên tuyển trong thời đại “Đại Đạo ẩn thế”, chính vì họ cẩn thận tuân thủ lễ chế, tuyên dương đạo nghĩa, thành tựu tín nhiệm, ứng xử cân nhắc thận trọng, đề xướng nhân ái, giảng khiêm nhường, trị quốc bằng tiêu chuẩn hiến chương. Nếu không làm như vậy, chính là vi phạm đạo nghĩa. Không tuân thủ lễ chế, người làm quân chủ sẽ bị phế truất, dân chúng sẽ coi đó là tai họa. Trạng thái xã hội như vậy được gọi là “tiểu khang”. “Khang” chính là ý nghĩa an khang, an tĩnh. “Tiểu khang” có nghĩa là sự an khang an tĩnh nho nhỏ.
Khi toàn xã hội không đạt được đến “thiên hạ vi công”, thì “thiên hạ vi gia” sẽ duy trì được truyền thống đạo đức và trật tự xã hội của văn minh nhân loại. Ta thấy không phải ngẫu nhiên mà cả Nho gia và Đạo gia đều coi “gia đình” là nơi tu hành.
Rõ ràng, cách miêu tả của Khổng Tử mang đầy đặc trưng thời đại, cũng có thể nói là có tính cục hạn nhất định về tầng diện lý thuyết, nhưng chúng ta không phải là không thể dựa trên cơ sở này mà mở rộng mô thức lý luận của ông. Người viết cố gắng tóm tắt các đặc trưng được điểm ra sau đây để thuyết minh, nhằm truyền cảm hứng cho các chuyên gia sau này nghiên cứu sâu hơn:
Trước hết, thời đại “Đại Đạo ẩn thế” không phải là “không có Đại Đạo”, mà là sự vận hành và tác dụng của “Đại Đạo” trong xã hội là tương đối ẩn tàng. Nói cách khác, so với xã hội nơi “Đại Đạo” hiển hiện, thì đến thời đại này, biểu hiện của “Đại Đạo” là ẩn tàng. Đương nhiên, lời giải thích của tôi chỉ là một cách biểu đạt ngôn từ đại khái và không chính xác lắm. Tuy nhiên, xét từ biểu hiện trạng thái xã hội, có một điểm có thể khẳng định là, tại thời đại “Đại Đạo ẩn thế”, bầu không khí xã hội là chỉnh thể đa số dân chúng đối với trình độ lý giải và trình độ tu hành “Đại Đạo” không đạt đến mức của thời đại “Đại Đạo hành thế”; nói cách khác, rất nhiều thế nhân không lý giải tốt ý nghĩa chân chính của “Đại Đạo”, cũng không có ý thức cá nhân và bầu không khí xã hội lớn mạnh của tu hành và tu luyện. Vậy thì “Đại Đạo” trong mắt và trong tâm họ chính là trạng thái “ẩn tàng”. Do đó, chúng ta có thể khẳng định, Khổng Tử nói về “Đại Đạo kí ẩn” không có nghĩa là phủ định sự tồn tại của “Đại Đạo”, cũng không nói là “Đại Đạo” bị tiêu mất, mà có thể trạng thái chân thực là “Đại Đạo” dùng phương thức ẩn tàng để vận tác những pháp tắc và biến hóa của thế gian, đồng thời khiến thế nhân trong thật thật giả giả, hư hư thực thực mà thể ngộ và tham tầm ý nghĩa của “Đại Đạo”.
Thứ hai, thời đại “Đại Đạo ẩn thế” có trạng thái đặc trưng bởi biểu hiện “thiên hạ vi gia”. Vậy thì, “gia” trong “Thiên hạ vi gia” không có ý chê bai châm biếm, mà là một mô tả có tính khẳng định về một loại trạng thái xã hội. Bởi vì, khi “Đại Đạo” bị ẩn tàng, khuất lấp thì những vấn đề về trật tự xã hội, bầu không khí, đạo đức… sẽ nổi lên, và để có thể duy hộ hệ thống trường sở đơn nguyên của trật tự và đạo đức trong tầng diện tối cơ bản của xã hội, thì từ cổ chí kim, chỉ có “gia đình” là tổ chức đơn vị xã hội bất biến nhất, ổn định nhất, kiên cố nhất, cơ bản nhất. “Gia đình” thông qua mối quan hệ huyết thống tự nhiên, thiết lập một cách hiệu quả mối thân tình ổn định, có thể dựa vào đó để kế thừa truyền thống văn hóa và vai trò xã hội, đồng thời có thể mở rộng nó để tạo ra tài vật và thể chế xã hội, v.v. Có thể nói, văn hóa “thiên hạ vi gia” là hiện tượng văn hóa căn bản nhất trong lịch sử 5.000 năm văn minh nhân loại lần này, đồng thời cũng là quan niệm giá trị cốt lõi của quá trình biến hóa của lịch sử nhân loại. Có thể nói, nếu không có “gia đình”, tiến trình lịch sử nhân loại có thể sẽ trở nên phức tạp và suy đồi nhanh hơn, khó có thể trong thời đại “Đại Đạo ẩn thế” mà diễn tiến tốt đẹp. Chúng ta đã thấy rằng thời đại “thiên hạ vi gia” cũng có thể sáng tạo thời đại thịnh thế, mặc dù nó không thể hoàn mỹ. Cũng chính là nói, khi chỉnh thể xã hội không đạt được đến “thiên hạ vi công”, thì “thiên hạ vi gia” sẽ duy hộ truyền thống đạo đức và trật tự xã hội của văn minh nhân loại. Chúng ta nhìn thấy, Nho gia và Đạo gia coi “gia đình” là đạo trường tư hành, tuyệt đối không phải ngẫu nhiên, hoặc có thể nói đó là một loại an bài ẩn tàng của “Đại Đạo”.
Tất nhiên, còn rất nhiều rất nhiều điều để nói về nhiều tầng diện “gia đình” của nhân loại. Bản nghĩa văn hóa thần truyền vốn có của “gia đình” vẫn cần được tìm hiểu thêm. Trải qua bao thời đại, “gia đình” đã trải qua những thăng trầm cùng với tiến trình của lịch sử nhân loại, đã có nhiều khúc ngoặt, thay đổi và biến dạng. Đặc biệt trong thế giới hiện đại, các chủng các dạng trào lưu tư tưởng văn hóa và công nghệ đang thay đổi phương thức sinh sống của con người, vai trò xã hội và chức năng xã hội mà “gia đình” được phân diễn cũng bị uy hiếp trên nhiều phương diện. Rất nhiều người nhận định rằng, thời đại này so với thời đại “Đại Đạo ẩn thế” càng hư hỏng hơn, thậm chí có người nhận định thời đại này là “Đại Đạo luân táng” – Đại Đạo chết dần. Chúng ta có thể ý thức được điều đó, ví như, những sự uy hiếp đó đến từ tư tưởng “vô thần luận”, từ các chủng các loại “chủ nghĩa cộng sản” và “chủ nghĩa xã hội”, đến từ đến sự phá hoại cuộc sống tình cảm hiện đại, đến từ sự thao khống của quyền lực chính trị và dục vọng cá nhân, đến từ những quan niệm khoa học biến dị v.v. “Gia đình” đang đối mặt với những thách thức và áp lực xã hội chưa từng có, đồng thời, “gia đình” cũng có thể, trong một số tình huống đặc định, tránh được những xói mòn xã hội này một cách hiệu quả, trở thành bến cảng bảo vệ cho đời sống xã hội.
Tôi thành tâm mong rằng, rất nhiều người lương thiện sẽ chăm sóc bảo vệ tốt cho “gia đình của mình và của người khác”, trong thời đại như vậy, hãy phát huy niềm tin và hy vọng rằng “Đông sắp tàn, Xuân đang tới”, tuân theo pháp tắc của “Đại Đạo”, “Đại Pháp” của trời đất thiên địa, xây dựng gia đình của riêng bạn thành một con tàu, và vững vàng chèo chống hướng tới mùa xuân đang tới.
Tài liệu tham khảo
“Thi Kinh”
“Tứ Thư Tuyển Tập”, Nam Tống Chu Hy
“Đạo Đức Kinh”, Tam Quốc Vương Bật
“Lễ Ký Chính Nghĩa”, Đường Đại Khổng Dĩnh
Tác giả: Mai Hoa Nhất Điểm, The Epoch Times, Hương Thảo biên dịch