Cao thủ trong “Tây Du Ký” nhiều như nước chảy mây trôi. Trong những trận so tài giữa các vị Thần tiên và yêu quái, người ta đều thảo luận rôm rả xem pháp lực của ai cao cường nhất, bảo bối của ai lợi hại nhất. Nhưng lại có câu rằng: “Cao thủ xưa nay không bao giờ động thủ rút đao“…
Trong “Tây Du Ký” có vị một cao thủ ẩn mình như thế dù mang thân là người phàm. Ông không dựa vào gươm đao sắc nhọn để tranh hơn thua, nhưng lại có thể lấy đức hạnh sâu dày của mình khiến quỷ Thần phải kính nể. Đó chính là Đường Thái Tông Lý Thế Dân.
Vì sao Long Vương bị Ngọc Hoàng trị tội lại thác mộng cầu cứu Đường Thái Tông?
Trong hồi thứ 10 của “Tây Du Ký”, Long Vương sông Kinh Hà làm trái ý chỉ của Ngọc Hoàng, tự ý thay đổi giờ giáng mưa và ăn bớt mực nước. Do đó ông bị Trời trách phạt. Vì để bảo toàn tính mệnh, Long Vương dưới sự chỉ dẫn của Viên Thủ Thành, một vị thần cơ diệu toán, ngay trong đêm đã thác mộng cho Đường Thái Tông.
Long Vương quỳ xuống thỉnh cầu Thái Tông cứu ông. Long Vương nói: “Bệ hạ là chân long, thần là nghiệp long. Vì thần vi phạm luật Trời nên sẽ bị hiền thần của bệ hạ là Ngụy Trưng xử trảm tại tào quan. Nay thần tìm tới Ngài khấu bái cầu xin, kính mong bệ hạ cứu thần một mạng!”.
Long Vương phạm tội, vi phạm ý chỉ của Ngọc Hoàng, theo lý là nên do Ngọc Hoàng giáng tội. Nhưng vì sao Long Vương lại tìm đến Đường Thái Tông xin cứu mạng? Đường Thái Tông có khả năng gì có thể bảo vệ cho Long Vương được đây?
Hóa ra cổ nhân cho rằng mảnh đất Thần Châu trải dài theo một long mạch cự đại. Hình thế vận hành tại thế gian sẽ đều thuận theo long mạch này. Người có thể chi phối long mạch chính là người phụng mệnh Trời vận hành giang sơn tại nhân gian. Người đó chính là hoàng đế tại cõi người. Vậy nên, thời Trung Quốc cổ đại thường tôn xưng hoàng đế là “Chân long Thiên tử” hay “Chân mệnh Thiên tử”.
Núi non, sông nước, biển cả của mỗi một triều đại đều nằm dưới sự thống trị của hoàng đế đương triều. Sông Kinh Hà nằm trong bản đồ của Đại Đường. Nên đương nhiên Long Vương của sông Kinh Hà phải xưng thần và cầu cứu Đường Thái Tông “chân long thiên tử”.
Đường Thái Tông có ý tha cho Long Vương một con đường sống nên đã triệu riêng Ngụy Trưng vào cung đánh cờ, để tránh Ngụy Trung làm hại đến Long Vương. Nhưng điều không may là Long Vương lại chỉ để tâm tới việc cầu xin Thái Tông cứu mạng, mà quên không báo cho Thái Tông biết thời gian chính xác mà ông bị hành quyết. Nên khi đến giờ Ngụy Trưng lại ngủ ngay trước mặt Đường Thái Tông và đã xử trảm Long Vương ở trong mơ.
Hồn phách của Long Vương vẫn không chịu buông tha cho Thái Tông. Ông làm kinh động đến Đường Thái Tông và nhất quyết đòi kéo Đường Thái Tông xuống địa phủ để tranh biện một phen.
Sau khi Đường Thái Tông đến địa phủ, Thập điện Diêm Vương nơi âm tào nhất tề khom lưng cúi đầu ra bái kiến. Các vị diêm vương nói năng cũng rất mực khiêm nhường, cung kính, không dám thất lễ với Đường Thái Tông. Có thể thấy được địa vị của Đường Thái Tông rất cao, ngay cả những vị Thần thông thường cũng không dám khinh mạn.
Đường Thái Tông đã làm được việc mà Thập điện Diêm Vương cũng không thể làm nổi
Sau khi Đường Thái Tông xuống đến địa phủ, Diêm Vương lệnh cho thuộc hạ lấy ra cuốn sổ Nam Tào, tra xét thọ mệnh của Đường Thái Tông. Viên phán quan Thôi Giác nơi âm ty phát hiện Thái Tông của Đại Đường ở châu Nam Thiệm theo số mệnh sẽ hết dương thọ vào năm Trinh Quán thứ 13 (Nhất thập tam niên), tức là năm nay.
Thế là ông vội vàng phóng bút, thêm hai nét vào chữ “Nhất 一”, thành chữ “Tam 三”, rồi mang trình Diêm Vương. Diêm Vương thấy vua Đường dương thọ còn 20 năm, bèn an ủi Thái Tông rằng một lát nữa ông sẽ được hoàn dương.
Một phán quan sao có thể to gan lớn mật dám tự ý sửa đổi sổ sinh tử như vậy? Năm xưa Tôn Ngộ Không đại náo âm tào địa phủ đã tự mình dùng bút hủy đi sổ sinh tử của chính mình. Diêm Vương phẫn nộ lập tức lên thiên thượng báo với Ngọc Hoàng. Nhưng vì sao Thôi phán quan tự ý tăng thêm 20 năm thọ mệnh cho Đường Thái Tông nhưng Diêm Vương lại cho qua không hề tính toán?
Hóa ra Đường Thái Tông là chân long thiên tử của Đại Đường, nắm giữ Trung Thổ (Trung Quốc). Chân thân hình rồng của ông nối liền với non nước và muôn dân đông như mây trời của Đại Đường. Có ông trên đời thì mới có thể giải quyết được vô số những oan hồn vô chủ nơi địa phủ.
Trước khi Đường Thái Tông hoàn dương, ông đã đi chu du khắp 18 tầng địa ngục. Ông đi qua Thành Chết Oan, nhìn thấy vô số oan hồn vô chủ. Đường Thái Tông khẳng khái mượn một kho ngân lượng bố thí cho những cô hồn dã quỷ không ăn không uống này. Ông còn đồng ý sẽ làm đại lễ siêu độ cho họ.
Một sinh mệnh muốn được đầu thai chuyển sinh thì cần hoàn trả hết thảy những nợ nần, ân oán mà họ đã từng gây ra từ đời trước hay kiếp này. Nếu không thể trả được món nợ đó họ sẽ phải sống nơi âm ty u tối, chịu đói, chịu rét để hoàn trả tội nghiệp. Không phải vị Thần tiên nào cũng có thể cứu độ họ.
Bởi lẽ món nợ của họ không chỉ liên quan con người, mà còn liên quan tới rất nhiều các sinh mệnh cao tầng khác. Nên nếu may mắn được một vị đại đức nào đó nguyện ý gánh trả nợ nghiệp thay họ, họ mới có thể siêu sinh. Ngay cả các vị Thập điện Diêm Vương cũng không có được công đức sâu dày như vậy để có thể làm việc này.
Đường Thái Tông cầu siêu cho họ cũng đồng nghĩa với việc mang món nợ của những oan hồn vô chủ này buộc lên thân mình. Ông phải gánh đỡ tội nghiệp thay họ thì họ mới có thể siêu sinh. Đường Thái Tông đã làm một việc mà Thập điện Diêm Vương cũng phải bó tay. Vậy nên Thập Điện Diêm Vương đều rất nể trọng ông, Quan Âm Bồ Tát cũng bảo hộ ông.
Thệ ước “bí ngô” giữa Đường Thái Tông và Thập điện Diêm Vương
Chuyến du hành địa phủ của Đường Thái Tông lần này đã giải quyết được vấn đề hóc búa nơi địa phủ. Trước khi ông rời khỏi địa phủ, Thập Điện Diêm Vương vui vẻ nói: “Chỗ chúng tôi có rất nhiều bí đao (đông qua) và dưa hấu (tây qua), chỉ thiếu mỗi bí đỏ (nam qua)”. Lúc đó Đường Thái Tông tỏ ý sau khi hoàn dương sẽ lập tức mang tới tặng họ.
Trong ngũ hành Nam thuộc hỏa, hỏa lại đối ứng với tâm. Ý của Diêm Vương là điều họ cần là cái tâm thuần hậu của người ở châu Nam Thiệm. Bí đỏ (Nam qua) là chỉ thiện quả mà lòng người tại vùng đất này kết được. Mà Đường Thái Tông lại có thể khiến nhân tâm kết được thiện quả, là bậc quân vương thánh giả ích nước lợi dân. Cho nên Diêm Vương chỉ có thể nhờ ông trợ giúp, cũng chỉ có ông mới có thể khiến lòng dân hướng thiện!
Trên “cuốn sổ thông quan” của Đường Tăng viết những gì? Vì sao vị quốc vương nào cũng vội vàng đóng ấn ngọc cho ông?
Thuở nhỏ khi xem “Tây Du Ký”, mỗi lần Đường Tăng đi qua một nước đều đưa “cuốn sổ thông quan” này để các vị quốc vương đóng dấu giúp ông. Trên cuốn sổ thông quan này rốt cuộc viết điều gì? Vì sao các vị quốc vương các nước đều vô cùng ưu ái Đường Tăng, đều vội vàng đóng ấn ngọc tỷ cho ông?
Sự tôn nghiêm và thần thánh của Đường Thái Tông quả là phi phàm. Vậy nên sau khi ông phái Huyền Trang đi Tây Thiên thỉnh kinh, chư Thần trên trời, gồm các vị thần của Phật gia và Đạo gia, đều đồng tâm hiệp lực trợ giúp suốt chặng đường.
Trước khi Đường Tăng khởi hành, Đường Thái Tông tự mình viết lên cuốn sổ thỉnh kinh và đóng lên bảo ấn thông hành, hay còn gọi là cuốn sổ thông quan. Bức thông quan này nhắn nhủ rằng Đường Tăng là người được hoàng đế Đại Đường phái đến. Quốc vương các nước cần hỗ trợ Đường Tăng được thông quan tiện lợi. Vua Đường Lý Thế Dân đã nói rõ nguyên nhân và ý nghĩa chuyến đi Tây Thiên thỉnh kinh của Đường Tăng.
Trên cuốn sổ viết rằng:
“Nam Thiệm Bộ Châu nước Đại Đường phụng thiên thừa vận thiên tử nhà Đường, điệp văn thông hành: Thiết nghĩ trẫm đức ít, được kế thừa đại nghiệp, thờ Thần yên dân, như tới vực sâu, như trên băng mỏng, đêm ngày lo sợ. Trước đây không cứu được lão Long sông Kinh Hà, ta bị quở trách, ba hồn bẩy phách, loáng cái xuống chốn âm ty, thành khách vô thường. Vì dương thọ chưa hết, cảm ơn vua cõi âm thả về hồi sinh, nên đã làm các việc thiện khắp nơi, xây sửa các Đạo trường độ các vong. Đội ơn Bồ Tát Quan Thế Âm cứu khổ, thân vàng xuất hiện, chỉ thị phương Tây có Phật có kinh, có thể độ các vong linh, siêu thoát cô hồn. Mệnh pháp sư Huyền Trang viễn du vượt thiên sơn vạn thủy, cầu kinh kệ. Nếu đến các nước phía tây, đừng diệt thiện duyên, đóng dấu điệp văn cho thông hành. Do đó làm điệp văn này. Ngày lành mùa thu năm Đại Đường Trinh Quán thứ 13, Ngự tiền văn điệp”.
Nơi luôn canh cánh ngóng trông, chờ đợi bạn trở về mới là cố hương và người thân thực sự của bạn
Trước khi khởi hành, Đường Thái Tông nhúm một nắm đất cho vào trong ly rượu trắng, dặn dò Huyền Trang hết lần này tới lần khác: “Thà thương nhớ một nắm đất quê hương, còn hơn mê đắm vạn lạng vàng nơi đất khách”.
Từ năm Trinh Quán thứ 13 khi đưa tiễn Đường Tăng lên đường, đến năm Trinh Quán thứ 16, Đường Thái Tông lệnh cho quan viên công bộ (6 bộ tại trung ương) xây “Vọng kinh lầu” (lầu ngóng trông kinh Phật) bên ngoài quan ải Tây An. Ông xây để chuẩn bị nghênh đón kinh sách trong sau này.
Hằng năm, Thái Tông đều lên Vọng kinh lầu, ngước mắt chờ mong Đường Tăng trở về. Chi tiết này được đặc tả rất xúc động. Cuốn tiểu thuyết mượn cớ này để nói cho độc giả biết rằng, nơi luôn canh cánh ngóng trông, chờ đợi bạn trở về mới là cố hương và người thân chân chính của bạn.
Trong kiếp này ánh mắt cha mẹ luôn mong ngóng chúng ta trở về đoàn viên. Nên cha mẹ ở nơi nào thì quê hương của chúng ta ở nơi ấy. Nhưng khi từ giã cõi thế gian, khi hồn lìa khỏi xác thì nơi mong ngóng linh hồn trở về mới là quê hương thật sự của mỗi người.
Thân người như chiếc áo. Con người chuyển sinh qua bao nhiêu đời trong cõi hồng trần này thì sẽ khoác lên mình bấy nhiêu tấm áo. Nên thế gian đâu phải quê hương thực sự của con người? Vậy nơi ấy là nơi nao? Phải chăng là nơi ban tặng kinh sách cho con người? Phải chăng kinh sách sẽ giúp nhân tâm hướng thiện, thuần tịnh bản thân? Phải chăng kinh sách là chiếc thang lên trời, trải đường cho linh hồn được trở về bên mái nhà và những người thân yêu thực sự của mình trên thiên thượng?
Con người lựa chọn cái Thiện cũng chính là lựa chọn tương lai tốt đẹp cho bản thân mình
Trong “Tây Du Ký” Đường Tăng đặt chân đến đâu bèn trao lại cuốn sổ thông quan cho quốc vương nơi ấy. Sau khi quốc vương đóng ấn ngọc ông mới có thể thông quan và tiếp tục cuộc hành trình.
Sau khi Đường Tăng lấy kinh trở về ông phải giao lại cuốn sổ thông quan cho Đường Thái Tông xem xét. Suốt hành trình thỉnh kinh trở về, những ấn ngọc trên sổ thông quan chồng lên nhau chi chít. Ấn ngọc các nước trên sổ thông quan đã trở thành bằng chứng cho con đường đi thỉnh kinh. Các nước cũng đều chứng kiến uy phong ngất trời của triều Đường phồn vinh thịnh vượng.
Đường Tăng đặt chân tới nơi nào thì nơi đó cũng đều phải bày tỏ thái độ của mình về chuyến đi thỉnh kinh này. Dẫu dân chúng nơi ấy giàu có hay nghèo hèn, dẫu quốc vương nước ấy lương thiện hay gian tà, thì khi đứng trước chân lý của Phật Pháp mọi người cũng đều phải đưa ra sự lựa chọn của bản thân mình.
Bởi lẽ chân kinh chính là đại biểu cho cái Thiện, đại biểu cho các vị Thần Phật nơi tiên giới. Con người lựa chọn đứng về bên Thiện, bảo vệ cái Thiện thì khi thiên tai nhân họa xảy đến sẽ được Thần Phật cứu độ và ban phước lành.
Bằng không người ấy chỉ có thể đi theo sự dẫn dắt của ma quỷ. Xưa nay ma quỷ chẳng khi nào mong muốn điều tốt đẹp cho con người. Chúng dựng lên cảnh phồn vinh và dùng Danh, Lợi, Tình làm mồi nhử để kéo chúng sinh về phía mình. Kỳ thực chúng chỉ đến để ma mị lòng người, dẫn con người sớm ngày xuống nơi địa ngục tăm tối mà thôi.
Chỉ có chân kinh mới có thể hóa giải những thứ ma mị này, tịnh hóa nhân tâm, đưa con người về bến bờ hạnh phúc. Vậy nên mới có câu: “Cuộc đời như giấc mộng”. Thân ở cõi thế gian mà kỳ thực chẳng thuộc về thế gian. Đây chỉ là nơi phân định thiện ác để linh hồn tìm về nơi cư ngụ vĩnh cửu của mình mà thôi.
Ta là ai, từ đâu đến, rồi sẽ đi về đâu?
Trong cuốn tiểu thuyết này, Đường Tăng nhắc đi nhắc lại những lời này không biết chán: “Đệ tử Trần Huyền Trang, phụng thánh chỉ của hoàng đế Đại Đường nơi Đông thổ, tới Tây Thiên bái Phật thỉnh kinh”. Trên thực tế đây cũng là lời giải đáp cho câu hỏi mà con người sống trên thế gian đều cần đối mặt vào phút chót cuộc đời của mình, tức là: “Ta là ai, từ đâu đến, rồi sẽ đi về đâu?”.
Bộ tiểu thuyết này còn chỉ ra một cách chính xác rằng: “Nhân thân nan đắc, Trung thổ khó sinh, chính Pháp khó gặp. Người được cả 3 điều này thì hạnh phúc lắm thay!”. Hồi thứ 91 viết rằng khi Đường Tăng vừa đặt chân tới Kim Bình phủ, hòa thượng nơi đó nghe tin Đường Tăng đến từ Đại Đường Đông Thổ thì vội vàng quỳ sụp xuống bái lạy và nói:
“Những người lương thiện chúng tôi ở đây, đọc kinh niệm Phật, đều chỉ mong tu được phúc phận chuyển sinh vào mảnh đất Trung Hoa. Được diện kiến phong mạo đường hoàng của thầy mới biết quả nhiên đây là phúc phận chúng tôi tu được từ kiếp trước. Nay chúng tôi mới được thọ ích, nên giờ mới vui mừng bái lạy thầy”.
Trong thế giới Ngô Thừa Ân tạo nên, Trung thổ là mảnh đất may mắn, là nơi giao tranh giữa cuộc đại chiến chính tà trong câu chuyện thỉnh kinh. Đây cũng là nơi phúc lành liên kết vạn nước vạn dân. Cổ nhân đều tranh nhau tu thiện để được chuyển sinh nơi Trung Thổ hay di dân tới Đại Đường.
Có Đường Thái Tông mới có câu chuyện thỉnh kinh. Đường Thái Tông vì độ chúng sinh thoát khổ, giải khai trăm nút thắt ân oán, nên mới quyết định phái người đi Tây Thiên thỉnh kinh. Sau khi Đường Tăng lấy được chân kinh con người còn phải chuyển sinh tại Trung Thổ mới gặp được ba niềm hạnh phúc trong kiếp người.
Bộ tiểu thuyết đã dùng rất nhiều ẩn dụ để nói rõ rằng có thể được sống cùng thời với Đường Thái Tông chính là chuyện may mắn lớn nhất trong kiếp người. Chỉ là con người say mê mới những màn trừ yêu diệt quái kịch liệt và đặc sắc trong “Tây Du Ký” mà coi nhẹ vị cao nhân chân chính ẩn mình trong đó: Đường Thái Tông.
Theo NTDTV
Nhã Văn biên dịch