Từ xưa đến nay, trong giới tu luyện lưu truyền rất nhiều câu chuyện về các vị Đạo sĩ hay cao tăng đắc Đạo. Họ đã khai mở công năng, chứng đắc thần thông, và nhìn thấy được rất nhiều điều mà người thường không thể thấy. Dưới đây là lời kể của một vị cao tăng như thế.
Tiếp theo Phần 1, Phần 2, Phần 3
***
Tôi tiếp tục đi về hướng Ngũ Đài Sơn, đến khi trời tối mới tới chân núi. Vì không biết vị trí cụ thể của chùa Thanh Lương nên tôi đã tìm đến thôn làng gần đó để hỏi thăm đường.
Khi tôi vừa vào thôn đã có người hỏi rằng, có phải tôi muốn tìm vị Phật sống nào đó trong làng của họ không. Tôi lấy làm kỳ lạ, tôi nói tôi muốn tìm chùa Thanh Lương chứ không phải đến tìm vị Phật sống nào đó.
Người ấy bèn nói rằng có một vị Phật sống sắp thăng thiên, rất nhiều Lạt Ma, rất nhiều hòa thượng đều đến tiễn đưa, nên ông ấy cho rằng tôi cũng đến để đưa tiễn vị Phật sống đó.
Nghe nói vậy, tôi không khỏi động tâm muốn xem thử Phật sống thăng thiên như thế nào?
Vị Phật sống này ở trong một ngôi chùa. Khi tôi đến nơi đã có hàng trăm Lạt Ma và hòa thượng đang tụ tập tại đó. Tôi thấy vị Phật sống khoảng 70-80 tuổi, đang xếp bằng ngồi trên tảng đá trước chùa, thân khoác cà sa màu đỏ thẫm, mắt nhắm lại, tay cầm tràng hạt. Tôi vừa đến nơi thì vị ấy liền mở mắt khiến tôi giật nảy mình, bởi vì ánh mắt của ông đang nhìn thẳng vào tôi. Tôi bèn hợp thập hành lễ.
Vị Phật sống khẽ gật đầu rồi đưa một tay lên trước ngực đáp lại. Đồng thời, ông dùng phương thức truyền cảm tư duy nói với tôi rằng, ông là người tu thành đắc Đạo cuối cùng của Mật tông.
Vị Phật sống nói, mạt Pháp loạn thế, tà ma nắm quyền, người đời mê muội, nhân loại đã không còn thuốc chữa nữa rồi. Tuy nhiên Đạo trời từ bi, đã có Đấng Cứu Thế đi lại khắp thế gian để phổ độ chúng sinh, giáo hóa người đời. Phàm là người có duyên, thiện tâm chưa mất, tự nhiên có thể đắc Pháp và được cứu độ.
Nói đến đây ông liền ngừng lại, rồi bắt đầu đả thủ ấn (làm các thế tay), tôi xem mà không hiểu gì. Nhưng thông qua thiên nhãn, tôi nhìn thấy khi ông làm thủ ấn, có vô số bông sen vàng từ thiên thượng rơi xuống xung quanh miếu chùa.
Một lúc sau, khi ông không còn đả thủ ấn nữa, khắp thân thể ông toả ra ánh sáng màu đỏ rực chiếu rọi đến tận chân trời. Ánh sáng mạnh mẽ kéo dài khoảng chừng 5-6 phút đến khi thân thể của Phật sống hóa thành đường cầu vồng bay thẳng lên trời. Nơi ông ngồi để lại rất nhiều hạt Xá Lợi, không dưới trăm hạt, có đủ cả ba màu đỏ, vàng, trắng; viên lớn thì cỡ như hạt đào, viên nhỏ thì cỡ như hạt gạo.
Nghìn dặm xa xôi đến Ngũ Đài Sơn, tuy không tìm được chính Pháp, nhưng đối với tôi, được tận mắt nhìn thấy một vị Lạt Ma chứng đắc “Pháp thân cầu vồng” là cơ duyên đáng trân quý vạn phần.
Nhiều năm sau khi rời Ngũ Đài Sơn, tôi đã đi khắp các danh sơn đại xuyên nổi tiếng của Trung Quốc, đã gặp rất nhiều bậc thanh tu, cũng gặp một số người vân du tìm Pháp giống như mình.
Rất nhiều thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, Thẩm Dương, Vũ Hán, Thâm Quyến, Nam Kinh, v.v., tôi đều từng đặt chân tới. Trong biển người hối hả ấy, có thể tôi và các vị đã từng gặp thoáng qua, chỉ là các vị không còn nhớ mà thôi.
Nhiều năm trôi qua như vậy, đi hơn cả vạn dặm đường, tôi cảm nhận được thế gian hồng trần này có quá nhiều mê hoặc, đâu đâu cũng có ma, nữa là nói đến tín ngưỡng Thần Phật. Con người thế gian hôm nay ngay đến cả tốt – xấu, thiện – ác cũng không phân biệt rõ được nữa.
Nhưng tôi biết vẫn còn rất nhiều người đang cố gắng giãy giụa trong vũng lầy ấy. Mặc dù họ không tìm được phương hướng, không thấy được hy vọng giữa cõi mê này, nhưng họ vẫn không từ bỏ con đường trở về nhà. Ví như có những người không hiểu kinh Phật, nhưng anh ta vẫn cầm quyển kinh đọc đi đọc lại nhiều lần; rất nhiều người tự nhận là vô Thần, nhưng lại đeo hình tượng Phật trên người; còn có rất nhiều người thường xuyên đến chùa lễ Phật bái Phật. Điều ấy cho thấy trong lòng họ vẫn còn có Phật, một thiện niệm đó vẫn chưa mất đi. Thẳm sâu trong sinh mệnh, họ vẫn biết vì sao phải chuyển sinh đến thế gian hiểm ác này.
Rất nhiều cư sĩ từng thỉnh giáo tôi tu trì Phật Pháp như thế nào. Ví như có người thích ngồi thiền nhập định, nhưng anh ta vừa ngồi xuống thì khắp đầu đều là tư tưởng hỗn loạn, đúng là sông biển quay cuồng, nghìn ngựa phi nhanh, căn bản không thể kiểm soát được. Họ hỏi tôi vì sao lại như vậy? Làm sao mới đạt được vô vi thanh tịnh, tâm vô tạp niệm đây?
Còn có người đã bỏ ra rất nhiều tiền của xây cất Phật đường, sớm tối thắp hương cúng bái, ngày ngày dập đầu vái lạy. Nhưng khi họ gặp kiếp nạn, Phật lại không hiển linh, không cho bất cứ khai thị và điểm hóa nào cả, những người như vậy cũng hỏi tôi vì sao bái Phật lại không linh?
Vậy vì sao người thời nay bái Phật không còn thấy linh nghiệm nữa?
Hơn nửa thế kỷ trở lại đây, rất nhiều trẻ em khi còn nhỏ đã không được giáo dục trong niềm kính ngưỡng về Thần Phật như trước kia. Đến khi ra ngoài xã hội, không ít người đã vì tiền đồ, vì danh vọng mà tham gia các tổ chức nào đó, và khi bắt đầu gia nhập họ đều phải tuyên thệ sẽ dâng hiến sinh mệnh cho các tổ chức này.
Điều đáng nói là, những tổ chức này đều tôn thờ thuyết vô Thần, bác bỏ sự tồn tại của Thần Phật.
Con người mất đi tín ngưỡng rồi sẽ ra sao? Đã có thời người ta coi tôn giáo và tín ngưỡng là một trong “Tứ Cựu” để mà phá bỏ. Vì con người không còn tin vào Thần Phật mà biết bao chùa chiền, miếu mạo, tu viện, đạo quán đều bị phá bỏ, hết thảy tượng Phật, tượng Thần đều bị đập nát. Hòa thượng, ni cô, đạo sĩ, những người tu Phật tu Đạo hết thảy đều bị vũ lực ép phải quay trở về cuộc sống trần tục. Mọi người nghĩ xem họ đang làm gì đây? Tin vào thuyết vô Thần có phải là bất kính với Thần Phật hay không?
Vậy thì, những ai đã thề sẽ dâng hiến sinh mệnh cho các tổ chức vô Thần, nếu anh ta lại tụng kinh, ngồi thiền, bái Phật, lại đi cầu khẩn Thần Phật bảo hộ — thì đó là hành vi gì đây? Đây chính là người hai mặt, phải không? Chư Phật là thần thánh vĩ đại, có thể khai thị cho một người ‘hai mặt’ hay không? Không thể được! Ngay cả trong thế tục hồng trần mà sống hai mặt thì cũng là hành vi đê tiện rồi, có phải là đạo lý này không?
Rất nhiều người ngày nay đều tin vào thuyết vô Thần. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thời kỳ mạt Pháp, cũng là hàm nghĩa chân chính trong câu: “Tà ma nắm quyền, vạn ma làm loạn nhân gian”.
Cái gì là ma? Con người hôm nay hễ nghe về “nhân quả báo ứng”, “tu Phật hướng thiện”, thì đại đa số đều cho là mê tín. Vậy thì, ở thế gian, nhồi nhét thuyết vô Thần chẳng phải là đang phá hoại chính tín của chúng sinh? Chẳng phải là phóng túng cho ma tính của con người phát tác hay sao?
Không tin vào Thần Phật, không tin vào nhân quả báo ứng, người ta cũng không còn ước thúc đạo đức của bản thân mình, làm điều ác mà không sợ quả báo — Đó chẳng phải ma tính thì là gì đây?
Thời mạt Pháp con người không tin vào Thần Phật, chạy theo ma tính. Ảnh: ĐKN
Vậy làm thế nào để thoát khỏi sự nhiễu loạn của ma quỷ. Rất đơn giản, chỉ cần các vị thật lòng từ bỏ thuyết vô Thần, sống lương thiện chân thành, trong tâm thật lòng tín Phật kính Phật. Phía trước tôi đã nói, lòng người không động, Thần Phật cũng chẳng biết làm sao. Nhưng mà, Phật gia có câu “Phật tính nhất xuất, chấn động thập phương thế giới” – chỉ cần thiện niệm của con người hễ xuất ra, đó là chấn động mười phương thế giới!
Hy vọng rằng mỗi chúng ta đều nhất tâm hướng thiện, sớm gặp được chính Pháp mà được cứu độ.
(Hết)
(Theo lời kể của vị cao tăng vân du)
Hồng Liên
Xem thêm: