Hồ Nguyên Trừng là ông tổ của súng Thần công, thứ vũ khí khiến quân Minh khiếp đảm. Đến năm 1789, pháo binh Tây Sơn lại góp phần quét sạch 29 vạn quân Thanh.
1. Hồ Nguyên Trừng – ông tổ của súng thần công
Lúc thế giới đang thai nghén về súng đại bác thì “thần cơ thương pháo” của Hồ Nguyên Trừng là một sáng chế vĩ đại, khiến cho quân Minh bao phen hồn bay phách lạc.
Trong triều đại nhà Hồ ngắn ngủi, Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng (1374 – 1446), con đầu của Vua Hồ Quý Ly, nổi bật lên là một thiên tài quân sự kiệt xuất. Ông chính là tổng công trình sư của phòng tuyến chống giặc bắt đầu ở yếu huyệt Đa Bang (Ba Vì) kéo dài theo bờ Nam Sông Đà, sông Hồng cho đến sông Ninh (Nam Hà) rồi lại tiếp tục theo bờ sông Luộc, sông Thái Bình đến Bình Than dài trên 400 km.
Hồ Nguyên Trừng cũng là người đã sáng tạo ra cách phòng thủ độc đáo. Ông cho đúc nhiều dây xích lớn chăng qua những khúc sông hiểm trở, kết hợp với quân mai phục trang bị bằng hỏa lực mạnh, từng khiến cho thủy binh giặc nhiều phen khiếp đảm.
Tuy vậy, nói đến Hồ Nguyên Trừng người ta thường nhắc nhiều nhất đến công sáng chế ra súng “thần công” của ông. ‘Thần cơ sang pháo’ và ‘Cổ lâu thuyền’ được coi là hai phát minh lớn về vũ khí do Hồ Nguyên Trừng – con trai cả của vua Hồ Quý Ly và là anh của vua Hồ Hán Thương sáng chế.
Thuốc súng xuất hiện ở nước ta khá sớm, được sử dụng trong các lễ hội và cả trong quân sự. Từ cuối thế kỷ 14, quân đội Đại Việt đã được trang bị, sử dụng hoả khí phổ biến và có hiệu quả.
Thời ấy, đầu thế kỷ 15, do yêu cầu chống giặc ngoại xâm, muốn có nhiều súng trang bị cho các thành trì và các hạm đội, Hồ Nguyên Trừng đã phải gấp rút tổ chức những xưởng đúc súng lớn. Ông đã đúc kết những kinh nghiệm cổ truyền, trên cơ sở đó, phát minh, chế tạo ra nhiều loại súng có sức công phá “sấm sét”.
Từ việc cải tiến súng, chế thuốc súng, hiểu rõ sức nổ của thuốc đạn, Hồ Nguyên Trừng phát minh ra phương pháp đúc súng mới gọi là súng “Thần cơ” – kiểu đại bác đầu tiên ở nước ta. Đây là loại súng có đầy đủ các bộ phận cơ bản của loại súng Thần công ở những thế kỷ sau này.
Loại súng này sử dụng đạn đúc bằng chì, gang hoặc đá, có sức xuyên và công phá tốt, hiệu quả sát thương và uy hiếp tinh thần quân địch rất cao. Cấu tạo súng thần công bao gồm: thân súng dài 44 cm, nòng súng dài 5 cm, trục quay, thước ngắm, lỗ điểm hỏa, khối hậu. Nòng súng là một ống đúc bằng sắt hoặc bằng đồng.
Phía đuôi súng được đúc kín có bộ phận ngòi cháy ở chỗ nhồi thuốc nổ. Đạn pháo là mũi tên bằng sắt lớn. Khi bắn, người ta nhồi thuốc súng vào phía đáy, rồi đặt mũi tên vào giữa và nhồi loại đạn ghém bằng sắt và chì.
Những cuộc khai quật tại Thành Nhà Hồ (năm 2008, 2010, 2012) đã tìm được khá nhiều đạn đá hình khối cầu tròn đều với nhiều kích cỡ khác nhau. Nghiên cứu đạn sử dụng các nhà chuyên môn cho rằng: Súng thần công thời Hồ có thân hình ống tròn dài đều, nòng trơn, phía sau thân hơi phình to để nạp thuốc súng.
Trên thân có lỗ nối ngòi nổ với phần thuốc súng để khi sử dụng châm lửa kích thuốc nổ đẩy viên đạn khỏi nòng súng đi xa về phía trước. Đạn được chế tác từ chất liệu đá, đất nung có độ cứng cao, khi bắn viên đạn có sức công phá lớn. Đạn có nhiều loại kích cỡ to nhỏ khác nhau, chứng tỏ xưa có nhiều loại súng cỡ nòng khác nhau.
Trong sách “Vân Đài loại ngữ” Lê Quý Đôn viết:”Con trai của Hồ Quý Ly là Hồ Nguyên Trừng đã sáng tạo ra phương pháp làm súng “thần cơ thương pháo”. Loại súng này có nhiều cỡ: lớn thì kéo xe, nhỏ thì dùng giá đỡ hay vác vai… Súng có ba loại: súng lớn đặt trên lưng voi, súng nhỏ hai người khiêng, súng nhỏ vác vai… Tuy nhiên, Hồ Nguyên Trừng chú trọng chế tạo loại thần cơ lớn gọi là “Thần cơ pháo” – thực chất là súng Thần công cỡ lớn được đặt cố định trên thành hoặc trên xe kéo cơ động.”
Vào lúc thế giới đang còn thai nghén về súng đại bác thì súng “thần cơ” của Hồ Nguyên Trừng là một sáng chế vĩ đại. Dù Trung Quốc là nơi phát minh ra thuốc súng nhưng trong cuộc xâm lược Đại Việt. Quân Minh bao phen kinh hoàng về loại súng này mà không hiểu nổi. Nhưng cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại và không được dân ủng hộ, trong lúc quân giặc giương cao cờ “phù Trần diệt Hồ”. Giặc Minh bắt được nhiều súng thần cơ, bắt được cả nhà sáng chế ra nó.
Khi chiếm được những khẩu pháo này họ rất đỗi kinh ngạc và khâm phục vì “thần cơ thương pháo”, có nhiều ưu thế hơn hẳn vũ khí của quân Minh. Họ nhanh chóng chởnhững cỗ “thần cơ” của Hồ Nguyên Trừng về nước, dùng súng Thần An Nam khi đánh với Mông Cổ.
Minh sử chép: “Trong cuộc bình Giao Chỉ, nhà Minh đã bắt được súng thần, pháo thần của Giao Chỉ được coi là vũ khí nhất thiên hạ… Súng “thần công” có được gần đây dùng sắt làm tên, bắn đi bằng lửa, đi xa ngoài 100 bước, nhanh chóng kỳ diệu như thần, nghe thấy tiếng là lửa đã đến (Trương Tú Dân)”.
Sau khi thất bại trong cuộc kháng chiến chống Minh. Năm 1407, 17.000 người Việt gồm gia quyến quan tướng họ Hồ và quân lính Đại Việt bị đưa về Nam Kinh, Trung Quốc. Vì tính mạng của cha (Hồ Quý Ly) nên Hồ Nguyên Trừng buộc phải phục vụ cho nhà Minh trong việc trông coi xưởng đúc súng.
Minh sử đánh giá cao công lao của Hồ Nguyên Trừng “đánh thắng địch là dựa vào súng thần”. Sau khi ông qua đời, vua nhà Minh sắc phong làm “Thần hỏa khí”, mỗi khi tế súng đều phải tế Hồ Nguyên Trừng. Trong “Vân đài loại ngữ”, Lê Quý Đôn viết: “quân Minh khi làm lễ tế súng đều phải tế Trừng”.
Tuy không thể góp công đánh bại quân Minh xâm lược nhưng súng thần công của Hồ Nguyên Trừng đã mở ra sự phát triển quan trọng trong lịch sử quân sự người Việt.
2. Tiếng súng Tây Sơn đại phá quân Thanh
Người Việt tự hào về phát minh của Hồ Nguyên Trừng nhưng cũng phải ngậm ngùi khi “thần cơ thương pháo” không ngăn được kẻ thù. Nhưng đến năm 1789, thì súng thần công của quân Tây Sơn đã gây khiếp đảm cho quân Thanh xâm lược, góp công lớn vào chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa.
Ngày 25-11-1788 (tức 28-10 Mậu Thân) Tổng đốc Cưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị theo lệnh vua Càn Long mang 29 vạn quân Thanh từ Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam tràn sang nước ta. Đến ngày 17-12-1788 Tôn Sĩ Nghị kéo quân vào Thăng Long.
Sau khi Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế ở Phú Xuân (Huế) lấy niên hiệu là Quang Trung, hay tin cấp báo giặc Thanh kéo sang xâm lược, đã quyết định tiến quân thần tốc ra Bắc, đại phá quân Thanh.
Với tài dụng binh thao lược, táo bạo, tốc chiến, tốc thắng của Hoàng đế Quang Trung, hơn 20 vạn quân Thanh bị đánh bất ngờ, bị tiêu diệt không kịp trở tay. Số sống sót tranh nhau chen chúc vượt qua cầu phao sông Hồng để trốn thoát, bị cầu đứt, vỡ, cuốn trối xác ngập đầy sông.
Chiều mồng 5 tết, Quang Trung tiến vào Thăng Long trong sự chào đón của nhân dân. Đại Nam chính biên liệt truyện mô tả: “Áo bào của Quang Trung sạm màu khói súng”.
Theo các nhà nghiên cứu, phong trào Tây Sơn (1771-1802) đã đánh dấu sự phát triển nhảy vọt của pháo binh Việt Nam. Bằng thiên tài quân sự của mình, Nguyễn Huệ đã đưa quân đội nói chung và pháo binh Tây Sơn nói riêng đến trình độ cận đại, vượt qua bọn xâm lược Xiêm, Thanh, không kém pháo binh quân đội các nước châu Âu lúc bấy giờ.
Chỉ tính riêng số lượng đại bác quân đội Tây Sơn trang bị cho thủy quân, lục quân lúc cao nhất phải đến ngàn khẩu. Một phần lấy được của quân Trịnh, Nguyễn, một phần tự chế tạo.
Lúc này, pháo binh đã được Tây Sơn nâng lên thành quy mô binh chủng hỏa lực, phù hợp với tư tưởng tiến quân thần tốc, cách đánh công thành, diệt viện, cơ động cao. Trong lục quân có pháo nặng phòng ngự giữ thành, có pháo tiến công cỡ lớn chi viện từ xa chở bằng tàu thuyền đến vị trí tập kết rồi cho voi kéo vào trận địa, có loại nhẹ đặt trên lưng voi trong đội hình tiến công của bộ binh.
Điểm đặc biệt nhất ở đây là Nguyễn Huệ đã biến voi thành những chiếc “xe tăng”, mang theo cả đại bác và hỏa pháo trên lưng. Sử nhà Thanh viết: “Quân giặc đều dùng voi chở đại bác xông ra trận”.
Giáo sĩ Cristophoro Borri đã viết như sau: “Có rất nhiều voi trong xứ Đàng Trong”, “voi ở đây lớn gấp hai voi ở Ấn Độ”. “Khi có chiến tranh và trận mạc thì người ta nhấc mui (trên) bành đi để thành một thứ chòi chở lính giao chiến với nỏ, với súng và có khi với khẩu đại bác: voi không thiếu sức để mang nổi và là con vật rất khoẻ, nếu không có gì khác. Chính tôi (tức giáo sĩ Borri) đã thấy một con dùng vòi chuyên chở những vật rất nặng, một con khác chuyển một khẩu súng lớn và một con nữa một mình kéo tới mười chiếc thuyền, chiếc nọ theo sau chiếc kia, giữa đôi ngà một cách rất khéo và đưa xuống biển …”
Được trang bị đại bác, voi chiến của quân Tây Sơn đã trở thành một lực lượng đột kích với hỏa lực mạnh gây hoang mang khiếp sợ cho giặc.
Những khẩu pháo đặt trên lưng voi nói trên được chốt chặt trên một cái bệ đặt trên lưng voi. Khung bệ hình tò vò khum khum lựa theo chiều lưng voi xuống hai bên sườn, có hai càng áp sát vào hai bên sườn con vật. Lót dưới khung bệ gỗ là một cái đệm rất dày và êm để khỏi xây xát da lưng voi. Tất cả đều được ghìm chặt bằng những dây đai rộng bản bằng da trâu. Ba dây luồn dưới bụng, một dây dưới đuôi, một dây vòng qua trước ức voi.
Vị trí chiến đấu của các pháo thủ là trên tấm ván đóng cứng vào đuôi càng của khung bệ gỗ hai bên sườn voi. Pháo thủ đứng theo hàng dọc, 3 người ở bên trái, 2 người ở bên phải. Khi có lệnh “nhồi thuốc”, pháo thủ đứng đầu hàng bên trái dùng một tay xoay nòng pháo về phía mình, tay kia nhận gói thuốc từ pháo thủ thứ 2 đứng sát sau, nhồi thuốc vào miệng nòng, dùng gậy dài vừa phải ấn gói thuốc vào tận đuôi nòng. Làm xong đẩy nòng về vị trí cũ.
Tiếp đến là khẩu lệnh “nhồi đạn”, pháo thủ đứng trên cùng bên phải một tay xoay miệng nòng pháo về phía mình, tay kia tiếp nhận viên trái phá của người pháo thủ chuyền đạn đứng sau và làm động tác nạp viên đạn vào miệng nòng. Làm xong xoay nòng thẳng hướng cũ. Như vậy chỉ còn ngắm rồi khai hỏa.
Sau đó người đội trưởng đứng thứ 3 bên trái nhảy lên mông voi để ngắm bắn từ phía đuôi, xê dịch đầu nòng pháo vào đúng mục tiêu đã định. Ngắm xong, pháo đội trưởng nhanh chóng tụt xuống thấp, cùng lúc pháo thủ phụ trách nhồi thuốc chốt cứng nòng pháo vào khung bệ. Khi có lệnh “phát hỏa”, người pháo thủ chuyền đạn ở bên phải liền dí bùi nhùi rơm châm vào ngòi thuốc phóng thò ra ở gần đuôi nòng.
Con voi chiến tinh khôn đã được huấn luyện thành thục, nghe thấy lệnh phát hỏa liền cong vòi giữ chặt dây đai vòng trước ức nó, ghìm chắc không cho pháo nhảy lên quá mức khi thuốc cháy đẩy viên đạn bay ra khỏi nòng pháo.
Tuy nhiên thêm một điểm cần lưu ý là, voi vốn rất sợ lửa và tiếng nổ lớn, việc huấn luyện được những con vọi chịu đựng được môi trường chiến đầu khắc nghiệt như vậy thể hiện trình độ kỹ, chiến thuật cao, kỷ luật nghiêm, hiệp đồng chặt chẽ của quân Tây Sơn. Một trong những người huấn luyện tài giỏi nhất chính là nữ tướng Bùi Thị Xuân.
Tiếng súng đại phá quân Thanh và hình ảnh người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ trong chiến áo bào sạm màu khói súng là những biểu tượng huy hoàng trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược phong kiến phương Bắc.