Tác giả: Thái Nguyên (biên soạn)

“Giếng Biển” biến nước biển thành suối ngọt

Thời nhà Tống, ở huyện Hoa Đình có một cửa hàng đồ cũ, trong tiệm treo một vật giống như chiếc thùng nhỏ mà không có đáy, không phải tre, không phải gỗ, không phải vàng cũng không phải đá, vừa không biết tên, cũng không biết dùng để làm gì. Vật này treo trong tiệm mấy năm trời chưa từng có ai hỏi đến.

Một hôm, có một lão thương nhân đi biển đến tiệm nhìn thấy nó, vừa kinh ngạc vừa vui mừng, mân mê rất lâu, bèn hỏi chủ tiệm giá bao nhiêu? Chủ tiệm biết vật này ắt có công dụng, liền hét giá năm trăm dân (một dân là một ngàn văn tiền). Thương nhân rất vui vẻ, cuối cùng mua nó với giá ba trăm dân.

Sau khi giao dịch xong, chủ tiệm bèn hỏi thương nhân: “Vật này tôi thực sự không biết, nay đã trả tiền rồi, tuyệt đối không có chuyện hối hận, xin ông cho tôi biết vật này dùng để làm gì?”

Thương nhân trả lời: “Đây là bảo vật quý giá nhất, tên gọi là ‘Giếng biển’. Thông thường đi biển đều phải chở nước ngọt theo, nên thường thiếu nước. Bây giờ chỉ cần dùng một vật chứa lớn đựng đầy nước biển, đặt ‘Giếng biển’ này vào trong, thì nước múc ra chính là suối ngọt. Ngày thường tôi chỉ nghe các thương nhân nước ngoài nói qua, không ngờ hôm nay may mắn có được, từ nay về sau đi biển không còn lo thiếu nước nữa.” Chủ tiệm lấy nước muối ra thử, quả nhiên đúng như vậy. Thương nhân vui vẻ mang bảo vật đi.

Đai Định Nước mà Đại Vũ từng dùng khi trị thủy

Thời nhà Thanh, tại khu chợ đồ cũ và tạp vật ở kinh thành, có một thanh sắt cũ, dài ba thước, rộng hơn hai tấc, hình dạng như dây nịt (thắt lưng), chỉ dài bằng một nửa, bên trong rỗng, bên ngoài đã gỉ sét. Hai mặt có một số đinh lồi lên, nhìn mờ mờ, nhưng không biết là vật gì. Thanh sắt cũ này được đặt trong một tiệm đồ cũ, không ai hỏi đến, đã nhiều năm rồi.

Một hôm, có ba bốn vị sứ giả từ Cao Ly (Triều Tiên) đi qua đây, cầm lên xem rất lâu, rồi hỏi giá bao nhiêu? Người bán nói đại là năm trăm văn. Sứ giả lập tức mở túi tiền lấy năm trăm văn tiền đưa cho ông ta. Chủ tiệm thấy họ ra tay hào phóng như vậy, trong lòng có chút nghi ngờ, bèn nói dối rằng đây là vật của hàng xóm, phải hỏi ý hàng xóm rồi mới trả lời được. Không lâu sau, sứ giả quay lại, người bán nói: “Suýt nữa thì nhầm, chủ nhân của vật này nói không có năm ‘kim’ (5 lượng bạc) thì không bán.” Sứ giả không chút đắn đo liền lấy ra năm lạng bạc. Người kia lại hối hận, hét giá cao hơn, nói: “Các vị nhầm rồi, cách nói của dân chợ búa chúng tôi là nói số lớn, năm ‘kim’ tức là năm mươi ‘kim’ (50 lượng) vậy.”

Sứ giả nói: “Tôi thực sự không tiếc tiền, nhưng ông đừng đổi ý nữa.” Người bán thầm nghĩ: Một thanh kẹp sắt phế liệu mà được giá cao như vậy, nếu lỡ mất người mua này, e rằng sau này mấy chục văn tiền cũng không bán được, thế là đồng ý. Sau đó, ông ta hỏi họ vật này có công dụng gì?

Lúc này, người xem dần đông lên, sứ giả giao đủ bạc cho người bán, rồi lập tức giao thanh sắt cho người của mình, bảo anh ta cưỡi ngựa đi thật nhanh. Sau đó, ông mới nói với họ: “Đây là Đai Định Nước của Đại Vũ. Thời Đại Vũ trị thủy, đã đắc được chín cái, dùng để định Cửu Châu nhằm bình ổn thủy thổ, đây chỉ là một trong chín cái đó. Phàm là gặp nước mặn, đắng hay vẩn đục, chỉ cần ném cái đai này vào, nước lập tức hóa thành suối ngọt, vì vậy nó vô cùng quý giá.”

Có mấy người hiếu kỳ, bèn đi theo ông ta về quán trọ của người Cao Ly, mời ông ta thử nghiệm. Sứ giả Cao Ly sai người múc mấy thạch nước đắng, đổ vào một cái lu, lại cho thêm muối vào khuấy đều, sau đó ném cái đai này vào. Nước bỗng nhiên sôi trào lên, tạo thành mấy chục cái bọt nước hình mắt cá, không bao lâu sau múc nước ra uống, quả nhiên nước mát lạnh ngọt lành, vượt xa cả nước suối trên núi. Thế là mọi người đều thán phục mà rời đi. Trong số đó có người sành sỏi nói rằng, sau khi Sấm Vương (Lý Tự Thành) công phá kinh thành, những bảo vật này lấy được từ chỗ các lão thái giám, có lẽ là bảo vật trong hoàng cung triều Minh. Trải qua bể dâu biến đổi, kỳ trân dị bảo trong nội phủ lưu lạc chốn nhân gian, khiến người ta không khỏi bùi ngùi.

“Bảo Mẫu” (Mẹ của Báu vật) có thể khiến minh châu tự động tụ lại

Thời nhà Đường, có một người họ Ngụy, thời trẻ gia thế hiển hách, của cải giàu có, nhưng sau khi kết giao với một số kẻ xấu, dần dần rơi vào cảnh nghèo túng, bị mọi người xung quanh xa lánh. Sau loạn An Sử, để tránh chiến loạn, ông đưa vợ trốn đến vùng Lĩnh Nam, qua vài năm, khi tình hình yên ổn mới trở về quê hương.

Khi thuyền đến Kiền Châu, một trận mưa lớn vừa tạnh, ông liền lên bờ phóng tầm mắt ra xa. Bỗng ông nhìn thấy một nơi trên bãi cát có một luồng khí xông thẳng lên trời cao mấy chục trượng. Ông bèn đến đó tìm kiếm, chỉ thấy giữa các kẽ đá có một mảnh đá, lớn bằng bàn tay, hình dạng như mảnh sành vỡ, lại giống như đá, nửa xanh nửa đỏ, màu sắc rất rõ ràng. Ông liền nhặt lấy, bỏ vào trong rương sách của mình.

Về đến quê nhà, gia sản trước đây đã không còn gì, ông cũng không có tiền của để mưu cầu quan chức, đành phải thuê nhà để ở. Trong số bạn bè ngày xưa có người thương tình, bèn chia cho ông một ít của cải vải vóc.

Thời bấy giờ, trong các cửa tiệm ở chợ có rất nhiều thương khách người Hồ (chỉ người ngoại quốc, thường là Trung Á, Ba Tư). Người Hồ mỗi năm tổ chức đại hội đồng hương một lần, mỗi người đều phải trưng bày bảo vật mình mang theo, gọi là “Bảo Hội” (Hội Báu vật). Người có nhiều bảo vật thì được đội mũ ngồi ở ghế trên, những người còn lại xếp theo thứ tự. Bạn của ông cũng đưa Ngụy sinh (chàng Ngụy) đến tham dự. Ngụy sinh chợt nhớ đến mảnh đá mình nhặt được, bèn giấu mảnh đá trong ngực áo mà đi, cũng không dám nói ra trước, chỉ ngồi ở hàng ghế cuối cùng.

Sau khi ăn uống xong, người Hồ lấy báu vật ra trưng bày. Người ngồi ở ghế trên cùng lấy ra bốn viên minh châu, lớn hơn một tấc đường kính. Những người Hồ còn lại đều đứng dậy, chắp tay cúi đầu lạy ông ta. Những người tiếp theo, người thì ba viên, người thì hai viên, toàn là trân bảo. Đến lượt Ngụy sinh ngồi ở cuối, đám người Hồ đều cười, trêu ông: “Cậu cũng có bảo bối sao?” Ngụy sinh trả lời: “Có!” Thế là ông lấy mảnh đá giấu trong ngực áo ra cho họ xem, chính ông cũng thấy buồn cười.

Nào ngờ người Hồ vừa nhìn thấy mảnh đá này, hơn ba mươi người có mặt đều đứng dậy, đỡ Ngụy sinh lên ngồi ở ghế đầu, rồi đồng loạt cúi lạy. Ban đầu, ông tưởng mình bị trêu chọc, vô cùng xấu hổ và hoảng sợ. Sau đó mới biết họ làm thật lòng, ông lại chuyển sang kinh ngạc.

Một số người Hồ lớn tuổi nhìn thấy hòn đá thì liền rơi nước mắt. Đám đông người Hồ bàn bạc với Ngụy sinh, xin mua lại bảo vật này, tùy ông ra giá. Ngụy sinh bèn hét giá một trăm vạn tiền. Đám người Hồ đều tức giận, nói: “Tại sao lại sỉ nhục bảo vật này của chúng tôi?” Sau đó, giá cứ tăng mãi đến một nghìn vạn (10 triệu) mới hoàn tất giao dịch.

Sau khi giao dịch xong, Ngụy sinh lén hỏi một người Hồ đây là bảo vật gì. Người Hồ nói: “Đây là quốc bảo của nước tôi. Vì chiến loạn mà bị mất đã ba mươi mấy năm rồi. Quốc vương của chúng tôi ra lệnh tìm kiếm, nói rằng: Người nào tìm được bảo vật này sẽ được phong làm quốc tướng. Lần này chúng tôi trở về, mỗi người đều sẽ được trọng thưởng, đâu chỉ là mấy trăm vạn?” Ngụy sinh lại hỏi nó có công dụng gì? Người Hồ nói: “Đây là ‘Bảo Mẫu’. Chỉ cần vào ngày rằm hàng tháng, quốc vương đích thân ra bờ biển, lập đàn tế lễ, đặt bảo vật này lên đàn, hễ đến tối, các loại minh châu bảo bối sẽ tự động tụ tập lại, vì vậy gọi là ‘Bảo Mẫu’.” Còn Ngụy sinh lần này cũng có được số tiền gấp bội gia sản trước kia của ông.

Nguồn tài liệu: “Quý Tân Tạp Thức”, “Nhân Thụ Ốc Thư Ảnh”, “Nguyên Hóa Ký”

Theo Epoch Times