Cổ nhân dạy rằng: “Vạn vật hữu linh”. Mỗi một đồ vật trên đời đều là sinh mệnh, có đặc tính và có linh hồn. Đặc biệt là đàn cổ cầm – được coi là vật phẩm do Thần ban tặng, con người nhân gian chỉ có thể may mắn gặp mà không thể cầu.
Trong “Cầm, Kỳ, Thi, Họa” thì “Cầm” là nhạc cụ có dây ra đời sớm nhất trong lịch sử văn minh 5000 năm của Trung Hoa. Ngày nay, nó được gọi là Cổ Cầm hay cũng được gọi là Thất Huyền Cầm.
Cổ cầm có lịch sử chế tác lâu đời, nhiều danh cầm đều có văn tự khảo chứng, hơn nữa lại gắn liền với những truyền thuyết thần kì. Trong đó nổi tiếng nhất là “Hiệu Chung cầm” của Tề Hoàn Công, “Nhiễu Lương cầm” của Sở Trang Vương, “Lục Ỷ cầm” của Tư Mã Tương Như và “Tiêu Vĩ cầm” của Thái Ung. Bốn cây đàn này được người đời gọi là “tứ đại danh cầm”.
Hiệu Chung Cầm
Hiệu Chung là danh cầm đời nhà Chu. Âm thanh của loại cổ cầm này lớn và vang giống tiếng chuông ngân, giống tiếng tù và kêu vang, khiến người nghe phải “đinh tai nhức óc”.
Truyền thuyết kể rằng, danh cầm kiệt xuất Bá Nha thời cổ từng đàn qua Hiệu Chung cầm. Về sau, Hiệu Chung cầm do Tề Hoàn Công – vị quân chủ hiền minh của nước Tề giữ. Tề Hoàn Công là người thông hiểu âm luật, thu thập rất nhiều danh cầm, nhưng ông yêu quý nhất là Hiệu Chung cầm.
Ông từng sai bộ hạ gõ sừng trâu, ca hát để giúp vui còn tự mình tấu Hiệu Chung cầm để phối hợp ăn khớp. Tiếng sừng trâu vang vang, tiếng ca thê lương bi ai, Hiệu Chung cầm cũng tấu lên âm thanh bi thương, khiến người hầu hai bên đều cảm động rơi lệ.
Nhiễu Lương Cầm
Câu nói “dư âm nhiễu lương, tam nhật bất tuyệt” (dư âm vẫn còn văng vẳng bên tai, ba ngày không dứt) có nguồn gốc từ một câu chuyện trong “Liệt Tử”. Vào thời nhà Chu, nữ ca sĩ Hàn Nga đi từ Hàn Quốc sang Tề Quốc, qua Ung Môn thì bị mất tiền, bất đắc dĩ đành phải hát rong xin ăn. Tiếng ca của Hàn Nga réo rắt rơi vào không trung giống như tiếng chim Nhạn hót mãi không ngừng. Ba ngày sau khi Hàn Nga rời đi, tiếng ca vẫn quẩn quanh ở nơi đây, mãi không dứt.
Cổ cầm này lấy tên là Nhiễu Lương có nghĩa là âm thanh ngân mãi không dứt. Theo truyền thuyết, Nhiễu Lương là lễ vật của một người tên Hoa Nguyên dâng lên Sở Trang Vương, không rõ niên đại chế tác.
Sở Trang Vương từ khi có được Nhiễu Lương cầm trong tay, cả ngày đàn tấu làm vui, say mê trong tiếng nhạc. Có một lần, ông còn liên tiếp 7 ngày không tọa triều, gác lại việc triều chính. Vương phi Phàn Cơ vô cùng lo lắng, khuyên Trang Vương rằng:
“Quân Vương, ngài quá đắm chìm trong âm nhạc! Xưa kia, Hạ Kiệt vì quá yêu đàn sắt ‘Muội Hỉ” mà dẫn đến hoạ sát thân. Trụ Vương vì mê nghe âm thanh uỷ mị mà mất giang sơn xã tắc. Nay, Quân Vương quá yêu thích Nhiễu Lương cầm như vậy, 7 ngày không tọa triều, lẽ nào cũng là muốn mất nước và mất mạng của mình?”
Sở Trang Vương nghe xong, như bừng tỉnh giấc ngủ. Nhưng ông không có cách nào kháng cự lại sự mê hoặc của Nhiễu Lương cầm nên đành phải nén lòng sai người đập vỡ đàn, thân đàn vỡ thành nhiều mảnh. Từ đó, danh cầm Nhiễu Lương đã thất truyền.
Lục Ỷ Cầm
Lục Ỷ cầm là cây đàn cổ của Tư Mã Tương Như, văn nhân nổi tiếng thời nhà Hán. Tư Mã Tương Như vốn gia cảnh bần hàn, nhưng ông lại vô cùng nổi danh về thơ phú.
Lương Vương nghe danh tiếng nên mời ông làm phú, ông viết tặng bài “Như ngọc phú”. Lời bài phú này hoa mỹ, đẹp đẽ, cấu tứ ý vị phi phàm. Lương Vương vô cùng vui mừng nên đã lấy cây đàn Lục Ỷ của mình tặng lại cho Tư Mã Tương Như làm quà đáp lễ.
Lục Ỷ là danh cầm truyền đời, trên đàn có khắc chữ: “Đồng tử hợp tinh”, tức là do tinh hoa của cây đồng và cây tử hợp lại. Tương Như có được Lục Ỷ như được báu vật. Kỹ năng chơi đàn tinh thông của ông phối cùng âm sắc tuyệt mỹ của Lục Ỷ khiến tiếng đàn của Lục Ỷ nổi danh ngay tức thì. Về sau này, Lục Ỷ trở thành biệt danh của cổ cầm.
Một lần nọ, Tư Mã Tương Như đến thăm người bạn là hào phú Trác Vương Tôn. Trác Vương Tôn mến mộ danh tiếng của bạn nên đã bày tiệc thịnh soạn để thiết đãi. Đang lúc cao hứng, mọi người thỉnh mời Tư Mã Tương Như chơi một khúc để cùng được thưởng thức.
Tương Như từ lâu đã nghe nói con gái của Trác Vương Tôn là Văn Quân tài hoa xuất chúng, tinh thông cầm nghệ, lại ngưỡng mộ mình, nên đã đàn khúc “Phượng cầu hoàng” để bày tỏ tình cảm.
Văn Quân sau khi nghe đàn, hiểu được hàm ý của cầm khúc nên đã cùng Tương Như kết mối lương duyên. Từ đó, chuyện Tư Mã Tương Như dùng đàn để tìm bạn đời được truyền tụng thành giai thoại thiên cổ.
Tiêu Vĩ Cầm
Tiêu Vĩ cầm là cây đàn cổ do nhà văn, nhà âm nhạc trứ danh Thái Ung thời Đông Hán chế tác. Khi Thái Ung trên đường đi lánh nạn, gặp đám cháy lớn, ông đã cứu được một khúc cây đồng có thanh âm khác lạ chưa bị cháy hết.
Ông dựa theo độ dài ngắn và hình dáng của nó chế tác thành cây “thất huyền cầm”. Quả nhiên thanh âm của nó rất khác thường.
Bởi vì phần đuôi của khúc cây còn lưu lại vết cháy nên ông đã đặt tên cho cây đàn này là Tiêu Vĩ. Âm sắc êm dịu dễ nghe của Tiêu Vĩ và được chế tác đặc biệt nên nó đã nổi danh bốn biển.
Cuối đời Hán sau khi Thái Ung bị sát hại, Tiêu Vĩ cầm vẫn được bảo quản hoàn hảo ở nội khố của hoàng gia. Hơn 300 năm sau, khi Tề Minh Đế lên ngôi, vì để thưởng thức tài nghệ đánh đàn hơn người của Vương Trọng Hùng, nên đã sai người đem Tiêu Vĩ cầm đã được cất giữ nhiều năm ra cho Vương Trọng Hùng diễn tấu.
Vương Trọng Hùng liên tục đàn 5 ngày, đồng thời cũng ngẫu hứng sáng tác “Áo não khúc” dâng hiến lên Minh Đế. Đến đời nhà Minh, Vương Phùng Niên người Côn Sơn đã cất giữ cổ cầm này.
Theo Đại Kỷ Nguyên Tiếng Trung
Mai Trà biên dịch