Giữa người quân tử và kẻ tiểu nhân luôn có sự so sánh, phân biệt rõ ràng. Xưa nay, bậc quân tử luôn là mẫu hình mà nhiều người đều muốn hướng đến. Nhưng như thế nào mới là quân tử, phân biệt quân tử với tiểu nhân ra sao luôn là câu hỏi khiến nhiều người thắc mắc.
Nhân cách của người quân tử thể hiện ở 3 điểm: “3 hổ thẹn”, “3 không” và “3 sợ”. Đây chính là tiêu chuẩn của người quân tử, đồng thời cũng là điểm khác biệt giữa quân tử và tiểu nhân.
1. Người quân tử nói chuyện có “3 hổ thẹn”
Khổng Tử nói: “Là người quân tử thì có 3 điều hổ thẹn. Chưa đến lượt nói mà đã nói là nôn nóng, hấp tấp. Đến lúc nói mà lại không nói là che giấu, lấp liếm. Chưa nhìn thấy sắc mặt người nghe mà đã nói là mù quáng”. (Thị vu quân tử hữu tam khiên: Ngôn vị cập chi nhi ngôn vị chi táo, ngôn cập chi nhi bất ngôn vị chi ẩn, vị kiến nhan sắc nhi ngôn vị chi cổ).
Chưa đến lượt đã cất lời nói chính là hành động của người nóng vội, muốn thể hiện mình, không khiêm tốn, nông cạn và xốc nổi. Lời nói như tranh cướp hết phần người khác, nói quá nhanh, quá nhiều, quá dai, chính là biểu hiện của sự kém tu dưỡng, ít giáo dục. Người quân tử luôn tránh xa điều ấy, trước khi nói thường lắng nghe kỹ, đến lượt mình thì suy nghĩ mấy lần mới cất lời, lời tuy ít nhưng giá trị.
Đến lượt mình nói nhưng không cất lời cũng là một cực đoan khác. Nó thể hiện sự lúng túng, khó xử, băn khoăn, không có khí chất. Nghiêm trọng hơn, nó còn thể hiện rằng người ta có lời dối trá, muốn che giấu, không dám bộc lộ công khai.
Người quân tử luôn ứng xử quang minh chính đại, đầu tròn đội trời, chân vuông đạp đất, khẳng khái đứng giữa gầm trời, không sợ hãi, không lo lắng. Nếu có lời đáng nói, họ sẽ dốc cạn lòng, không phải rào trước đón sau nhiều.
Chưa thấy sắc mặt người nghe mà đã nói cũng là một điều nguy hiểm. Trước khi phát ra lời nói, cần phải luôn giữ được lễ, tự kiềm chế bản thân. Nếu nói ra những lời thị phi, gây thương tổn, nói ra những lời kiêng kỵ, kỵ húy thì có thể khiến người nghe khó chịu, buồn bực, thậm chí phẫn nộ, tức giận.
Nói mà không nghĩ cho người, không để ý đến cảm xúc người nghe chính là biểu hiện của sự ích kỷ và tùy tiện. Những người ấy chỉ cầu sự thoải mái, khoái khẩu nhất thời cho bản thân, ngoài ra mọi chuyện với họ không quan trọng.
Người quân tử thì thái độ khoan hòa, ăn nói chừng mực, không phát ra lời thị phi, chỉ nói những điều nên nói. Họ cũng tôn trọng cảm xúc của người nghe, lời nói ra còn có sự an ủi, hòa ái. Người nghe được cảm thấy dễ chịu muôn phần. Đó chính là sự tu dưỡng cao nhất trong giao tiếp, nói năng vậy!
2. Người quân tử làm việc có “3 không”
Có câu: “Quân tử bất vọng động, động tất hữu đạo”, ý rằng quân tử không hành động mù quáng, hành sự thì đều chiểu theo đạo lý. Họ đối với mình cũng vô cùng nghiêm khắc, biết tự kiềm chế dục vọng, biết tự sửa mình, luôn luôn hướng nội tìm sai. Điều này khác hẳn với kẻ tiểu nhân chỉ cầu trục lợi cho mình, bất chấp hành vi thủ đoạn. Kẻ tiểu nhân vốn không có đạo ở trong lòng, không có đường biên giới hạn, nên có thể làm chuyện xằng bậy, gây điều thị phi mà không cảm thấy đắn đo nhiều.
Người xưa dạy: “Quân tử bất cẩu cầu, cầu tất hữu nghĩa”, ý là: quân tử không truy cầu tùy tiện, cầu điều gì cũng đều là làm theo việc nghĩa. Nghĩa chính là điểm phân biệt lớn nhất giữa quân tử và tiểu nhân. Quân tử trọng nghĩa, còn tiểu nhân thì hám lợi. Không phải người quân tử ghét bỏ tiền bạc, của cải mà đó đều phải là của cải chính nghĩa, được làm ra một cách chân chính.
Khổng Tử nói: “Kiến nghĩa bất vi vô dũng dã” (thấy việc nghĩa không làm thì không phải kẻ dũng). Người quân tử có dũng khí lớn bởi họ luôn làm việc nghĩa, luôn “giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha”. Quan Vũ là một anh hùng nổi tiếng thời Tam Quốc. Ông được người đời nhớ đến nhiều nhất bởi chữ “nghĩa” này.
Chuyện kể rằng, khi Lưu Bị bị Tào Tháo đánh bại, Quan Vũ đơn thương độc mã cầm quân chống trả, bị vây tứ bề, định tìm cái chết. Tào Tháo mến tài, cho người dụ hàng ông. Quan Vũ khẳng khái đề ra 3 điều kiện, trong đó có nói nếu biết Lưu Bị ở đâu thì sẽ từ biệt Tào công, đến tìm anh mình bằng mọi giá. Tào Tháo chấp nhận.
Khi về dưới trướng Tào Tháo, Quan Vũ rất được ân sủng. Tào Tháo sai người mang mỹ nữ, vàng bạc đến thưởng cho ông, ông không nhận. Tào Tháo thưởng chiến bào, tặng ngựa quý Xích Thố, Quan Vũ cũng không động lòng. Tào Tháo đãi Quan Vũ “3 ngày một tiệc nhỏ, 5 ngày một tiệc lớn”, lại cấp ấn phong hầu, ân sủng hết mực. Thế nhưng khi nghe được tin Lưu Bị đang ở Hà Bắc với Viên Thiệu, Quan Vũ nhất quyết từ tạ ra đi, không gì cản nổi, qua 5 ải chém 6 tướng, đi vào lịch sử như một tấm gương về nghĩa khí, trung nghĩa.
Do đó, người quân tử làm việc luôn cân nhắc đến yếu tố đầu tiên là đạo nghĩa. Tấm lòng của họ phóng khoáng, khoáng đạt, không bị vật chất làm lóa mắt, mờ trí. Hành động của họ lỗi lạc, quang minh, có trước có sau, không phụ người có ơn, cũng không quên thâm tình cũ. Kẻ tiểu nhân không thể nào mong có được những phẩm chất ấy.
“Quân tử bất hư hành, hành tất hữu chính”, nghĩa là quân tử không làm việc tùy tiện, làm việc tất phải chân chính. Tùy tiện thì đã chính là kẻ tiểu nhân. Người quân tử là tùy duyên, tùy tâm hành động. Tùy duyên có nghĩa là thuận theo đạo lớn, không cố chấp mưu cầu. Còn tùy tiện chính là tự do như ý, lúc thì một mực truy cầu, lúc lại buông xuôi chán nản.
Trước khi làm việc gì, người quân tử luôn suy xét kỹ rằng việc đó có chính đáng không, có lợi cho người khác, có làm hại ai không? Khổng Tử từng dạy: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”, ý rằng điều mình không muốn, chớ làm cho người.
3. Người quân tử có “3 sợ”
Trong “Luận ngữ”, Khổng Tử viết: “Quân tử hữu tam úy: Úy thiên mệnh, úy đại nhân, úy thánh nhân chi ngôn”. Đại ý rằng người quân tử có 3 điều lo sợ: sợ mệnh Trời, sợ lời nói của người đức cao vọng trọng và sợ bậc thánh nhân.
Chữ “úy” (sợ) ở đây không phải là sợ hãi, sợ sệt theo kiểu tiêu cực. Mà đó là tâm thái khiêm tốn, nhún nhường, khiêm cung như trong câu “Hậu sinh khả úy” (Kẻ hậu sinh đáng nể) vậy.
Vì biết kính sợ mệnh Trời nên người quân tử mới tự ước thúc đạo đức của mình, không làm chuyện thị phi, điều bất nghĩa. Sợ mệnh Trời không phải là biểu hiện của sự nhu nhược, yếu hèn mà chính là thể hiện một trí huệ siêu việt, biết được thiên lý, Đạo lớn của vũ trụ, chiểu theo sự an bài của Trời mà tu thân, làm việc nghĩa.
Người quân tử cũng luôn luôn học hỏi không ngừng. Dù người khác gọi họ là “đại nhân”, “quân tử”, “anh hùng”, họ cũng không vì thế mà tự cao, tự đại, cho mình là nhất. Họ luôn noi gương các bậc thánh hiền, chiểu theo đạo đức của cổ nhân mà hành xử, tu thân dưỡng tính.
Còn kẻ tiểu nhân thì sao? Khổng Tử viết: “Tiểu nhân bất tri thiên mệnh nhi bất úy dã, hiệp đại nhân, vũ thánh nhân chi ngôn”. Tiểu nhân không biết mệnh trời nên không sợ, khinh mạn bậc đại nhân, coi thường lời nói của thánh nhân. Kẻ tiểu nhân mặc dù tri thức hạn hẹp nhưng lại cho mình là tài giỏi hơn người, chỉ trích lời nói của bậc thánh hiền.
***
Cổ nhân đều dạy phải tránh xa tiểu nhân, gần người quân tử, làm việc đại nghĩa, không cầu lợi riêng. Phong thái của một người quân tử chính là từ xa trông lại thì thấy trang nghiêm, đến gần thì cảm thấy ôn hòa, lời nói ra trang trọng, tấm lòng luôn khoáng đạt. Người quân tử không sợ kẻ mạnh, gặp người yếu thì nâng đỡ, tôn kính người già, che chở trẻ nhỏ.
Một đời người quân tử là “lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ”. Lời nói của họ chính là thể hiện của tín nghĩa và chính nghĩa, một lời nói ra bốn ngựa khó đuổi. Quân tử chính là quân tử từ những hành động nhỏ nhặt nhất, những điều tưởng chừng bé nhỏ.
Một đất nước có nhiều người quân tử thì khẳng định là giàu mạnh, thịnh vượng, đạo đức thăng hoa, trường tồn vĩnh cửu.
Bạn có muốn làm một người quân tử như thế chăng?
Văn Nhược