Phật pháp không phải là những điều mê tín như chúng ta vẫn lầm tưởng, mà đó là một phương pháp khoa học khác với khoa học hiện đại chúng ta. Trong tiến trình nhận thức về vũ trụ, Phật pháp thậm chí còn đi trước cả khoa học.
“Vạn vật hiển linh”
“Vạn vật hiển linh” là sao?, theo Phật pháp nhận thức, thì vạn vật đều có linh hồn, cỏ cây, hoa lá,… chúng đều là những thực thể tồn tại đồng đẳng với con người.
Một thời chúng ta nhìn nhận rằng nhận thức này rất “mê tín”, theo thuyết tiến hóa của Darwin thì con người là động vật bậc cao, có tư duy, còn cỏ cây, hoa lá là thực vật bậc thấp, không thể có được mức độ tư duy phức tạp như con người.
Nhìn nhận của thuyết tiến hóa có vẻ rất chính xác và trong một thời gian dài đã đánh lừa được khá nhiều người, cho đến một ngày vào tháng 2/1966, một chuyên gia cục tình báo CIA của Mỹ nghiên cứu về máy dò nói dối tên là Cliff Baxter, trong một lúc hứng khởi đã nối hai cực của máy dò nói dối lên lá của một cây ngưu thiệt lan hoa, rồi tưới nước vào gốc cây. Trong khi nước đang từ từ chảy xuống rễ cây, ông ngạc nhiên phát hiện rằng: Trên bản vẽ điện kế, bút điện tử tự động không đi lên, mà là đi xuống và vẽ ra một đồ hình lớn hình răng cưa, loại hình vẽ đồ thị này rất giống với loại đường cong mà đại não của con người trong lúc hưng phấn, cao hứng mà sinh ra!
Rất nhiều nghiên cứu khác được triển khai còn phát hiện ra thực vật có công năng siêu cảm, có trí nhớ, có thể phân biệt thật giả và khả năng cảm thụ âm nhạc.
Những phát hiện trên đã gây ra một chấn động, hóa ra những điều chúng ta tưởng rằng thực vật là sinh vật cấp thấp hoàn toàn không phải, bởi nó có đầy đủ cảm nhận như một con người, thậm chí còn hơn cả con người như công năng siêu cảm, con người chỉ nghĩ thôi nó đã biết được rồi, có mấy người thực hiện được điều này?
“Vạn vật hiển linh”, câu nói có vẻ “mê tín” này hóa ra lại mô tả chính xác một hiện tượng khoa học.
“Trong một hạt cát có tam thiên đại thiên thế giới”
Cách đây hơn 100 năm, phân tử được coi là hạt sơ đẳng nhất. Ngày nay, nhờ công nghệ khoa học phát triển, chúng ta biết thêm phân tử do nhiều nguyên tử khác nhau liên kết tạo thành bởi electron. Mà mỗi nguyên tử lại được cấu tạo bởi hạt nhân của nó với electron dao động xung quanh. Rồi hạt nhân nguyên tử do proton tổ hợp tạo thành, tiếp nữa là hạt quark, neutrino,…
Càng nghiên cứu thì các nhà khoa học càng phát hiện ra chuyển động của các điện tử quanh hạt nhân nguyên tử cũng tương tự như chuyển động của trái đất và các hành tinh xung quanh mặt trời. Hơn nữa khoảng cách giữa các hạt trong cấu trúc của phân tử cũng vô cùng rộng lớn, cũng không có nhiều sự khác biệt giữa khoảng cách giữa các hành tinh và các vì sao.
Ngoài ra, trong những năm gần đây, sử dụng các công cụ máy móc phức tạp để soi chiếu cấu trúc của bộ não, các nhà khoa học nhận ra sự tương đồng đáng kinh ngạc giữa bộ não với vũ trụ.
Hai bức hình trên miêu tả những sự tương đồng. Bên trái là mạng lưới nơ-ron thần kinh trong một tế bào não; bức hình bên phải mô phỏng sự phân bố của vật chất trong vũ trụ theo nghiên cứu của dự án Mô phỏng Thiên niên kỷ (Millennium Simulation).
Các khoa học gia còn giải thích rằng hố đen giống như nhân tế bào: “Gần như tất cả những gì tồn tại trong vũ trụ lớn đều được phản ánh trong tế bào sinh học như một tiểu vũ trụ. Nói đơn giản, vũ trụ có thể được nhìn nhận như một tế bào.”
Cách đây mấy nghìn năm Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã giảng: “Trong một hạt cát có tam thiên đại thiên thế giới.” Nó rất tương hợp với nhận thức của chúng ta ngày nay về thế giới vĩ mô cũng như vi mô.
“Bát vạn tứ thiên trùng”
Cách đây 2.500 năm, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhìn vào bát nước và giảng “Bát vạn tứ thiên trùng” rằng ở trong bát nước có 84.000 con vi trùng.
Phải rất lâu sau đó, con người mới có thể khẳng định lời nói của Đức Phật. Vào thế kỷ XVII, người có công phát hiện ra thế giới vi sinh vật và cũng là người đầu tiên miêu tả hình thái nhiều loại vi sinh vật là một người Hà Lan Antonie van Leeuwenhoek (1632 – 1723). Ông đã tự chế tạo ra trên 400 kính hiển vi, trong đó có cái phóng đại được đến 270 lần.
Với những chiếc kính hiển vi cầm tay, có gương hội tụ ánh sang, có ốc điều chỉnh để cho vật định quan sát rơi đúng vào tiêu điểm và bằng cách ghé mắt vào khe nhỏ có gắn thấu kính mài lấy nhỏ xíu, Leerwenhoek đã lần lượt quan sát mọi thứ có xung quanh mình. Năm 1674 ông nhìn thấy các vi khuẩn và động vật nguyên sinh, ông gọi là các “động vật vô cùng nhỏ bé”. Ông thấy các “động vật” này có rất nhiều trogn bựa răng và ông viết rằng trong miệng của ông số lượng của chúng còn đông hơn cả dân số của nước Hà Lan.
Qua giới thiệu ông đã gửi đến Học hội Hoàng gia Anh 200 bức thư, qua đó ông đã miêu tả hình thái và dạng chuyển động của nhiều loại vi sinh vật. Nhiều bài báo của ông đã được dăng trên tạp chí Triết học của Học hội Hoàng gia Anh và năm 1680 ông đã được bầu làm thành viên của Học hội này. Tất cả các quan sát và miêu tả của ông đã được in thành một bộ sách gồm 4 tập có nhan đề “Những bí mật của giới tự nhiên nhìn qua kính hiển vi”.
Chỉ tới đầu thế kỉ 19 những chiấc hiển vi quang học hoàn chỉnh mới ra đời với các cống hiến to lớn của G. battista Amici (1784 – 1860) Ernes Abbe ( 1840 – 1905), Karl Zeiss (1816 – 1888)… năm 1934 chiếc kính hiển vi điện tử đầu tiên ra đời. Đó là loại kính hiển vi không dung ánh sang khuếch đại nhờ các thấu kính mà dung 1 chùm điện tử khuếch đại lên nhờ các điện từ trường.
Từ đây con người mới có nhận thức rõ ràng đầy đủ về thế giới vi mô, ngoài tầm quan sát của mắt người. Vậy mà 2.500 năm trước Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã có thể mô tả chính xác sự tồn tại của vi khuẩn, vi trùng trong bát nước.
“Một ngày phương trời, nghìn năm mặt đất”
Trước đây con người cho rằng thời gian và không gian là “ tự nhiên”, “bất biến”, tuy nhiên trên thế giới xảy ra nhiều hiện tượng vượt thời – không hết sức xác thực.
Điều này dẫn đến xuất hiện nhiều lý thuyết mới về những vũ trụ song song, “đa thế giới tương tác”… Các lý thuyết này gợi ý rằng ngoài thời – không chúng ta còn có nhiều thời không khác tồn tại song song. Tuy nhiên các không gian khác nhau thì có thời gian khác nhau, điều này giải thích cho việc nhiều tàu thuyền đi lạc vào thời – không khác trong vài phút rồi quay trở lại thì đã mấy chục năm trôi qua.
Trong khi các nghiên cứu của các nhà khoa học mới chỉ bước đầu khám phá ra sự tồn tại của các thời – không khác thì những điều này từ lâu đã được đề cập trong tín ngưỡng và tôn giáo. Những người thực hành tín ngưỡng và tôn giáo đều cho rằng bên cạnh thế giới, vũ trụ mà con người chúng ta đang hiện hữu, có vô số thế giới khác và vũ trụ khác cùng đồng thời tồn tại.
Phật gia từng giảng rằng: “Một ngày phương trời, nghìn năm mặt đất”, đó chính là nhận thức về các thế giới song song với thế giới của chúng ta, ở trong những thế giới đó thời gian có thể trôi nhanh, hoặc chậm, gây lên hiện tượng thời gian một ngày ở trên trời thì dưới mặt đất đã nghìn năm trôi qua.
Trong các sách nhà Phật cũng có những ghi chép về hiện tượng này. Ngày 25/10/1967, huyện Đức Hòa, tỉnh Phúc Kiến có vị Khoan Tịnh pháp sư khi ngồi thiền trong động Di Lặc núi Cửu Tiên, đột nhiên được “Quan Âm Bồ tát” tiếp dẫn đến “Thế giới Tây Phương Cực Lạc”. Vị pháp sư này cảm giác thấy bản thân trước sau chỉ ở lại thế giới Cực Lạc khoảng hơn 20 giờ đồng hồ, nhưng khi ông quay trở về nhân gian, lại phát hiện trải qua thời gian hơn 6 năm rồi. Tháng 4/1987, bài nói chuyện của Khoan Tịnh pháp sư trong buổi diễn thuyết tại chùa Nam Hải Phổ Đà Sơn ở Singgapore, đã được các cư sĩ tục gia chỉnh lý thành “Tây Phương Cực Lạc thế giới du ký” truyền lại đời sau.
Những điều trên chứng tỏ Phật pháp không phải là những điều mê tín như nhiều người vẫn lầm tưởng, mà nó là một phương pháp khoa học khác với khoa học hiện đại chúng ta.
Tuy nhiên, sau hàng nghìn năm, những điều cốt lõi làm nên tính khoa học của tôn giáo đã thất truyền, lưu truyền lại đời sau chỉ là một số điều bề mặt, thêm nữa nhiều tà giáo cũng xuất hiện khiến con người không thể phân biệt được đâu là những điều chân chính, những điều này cũng khiến chúng ta coi tôn giáo chỉ là những điều mê tín mà phủ định hoàn toàn tính khoa học của nó.
Nam Minh