Từ truyền thuyết “Hoa Đà và con rái cá”
Từ rất lâu, Tía tô là một vị thuốc không thể thiếu trong bài thuốc xông chữa cảm hàn lưu truyền trong dân gian vô cùng hiệu nghiệm. Người bị chứng cảm hàn, thường ngất lịm, cứng miệng, tay chân, toàn thân lạnh ngắt… Nếu không gần nơi bệnh viện hay không được sơ cứu đúng cách ngay thì bệnh nhân rất dễ tử vong hoặc để lại tai biến lâu dài sau này. Bài thuốc xông của người dân trung du miền núi vùng Thanh – Nghệ rất đơn giản nhưng luôn có tác dụng triệt để trong chữa trị chứng cảm này.
Bài thuốc gồm có: Tía tô, Cúc tần, Lá bưởi, Lá tre gai, Cây sả, Kinh giới, Ngải cứu…, mỗi thứ một nắm (150g-200g tươi) cho vào nồi nước đun sôi rồi cho bệnh nhân trùm mền xông. Nếu bệnh nhân quá nặng, người ta lấy một chén (bát ăn cơm) nước xông mới đun xong ra quạt cho nhanh nguội rồi cạy miệng bón cho bệnh nhân uống (trường hợp bệnh nhân không còn có thể tự uống) hết chén nước là có thể hồi tỉnh để xông thuốc.
Bí mật hiệu quả của bài thuốc xông này nằm ở 4 vị thuốc chính là Tía tô (Tử tô) – Cúc tần – Ngải cứu, Kinh giới làm chủ vị.
Tía tô là một cây thường dùng làm gia vị ở miền Bắc và cũng là một cây thuốc có nhiều công dụng. Tác dụng chữa bệnh của cây này gắn liền với một truyền thuyết rất lý thú, được ghi lại trong sách Bách thảo dược dụng thú loại như sau:
Tương truyền một hôm Hoa Đà đi hái thuốc, ngồi nghỉ bên bờ sông tại một địa phương ở Giang Nam, tình cờ ông nhìn thấy một con rái cá đang ăn ngấu nghiến những con cua. Một lát sau, con rái cá đó ngã xuống, quằn quại trên mặt đất trông hết sức đau đớn. Hoa Đà tự nhủ: Có lẽ do con rái cá ăn quá nhiều cua chăng? Rồi Hoa Đà lại thầm nghĩ, thử xem nó có tìm cách gì để tự giải cứu hay không?
Sau đó, Hoa Đà thấy con rái cá bắt đầu cố lê lết bò men theo bãi sông, tìm đến chỗ một bụi cây màu tím thì dừng lại và ăn lá của cây ấy. Con rái cá nằm xuống nghỉ một lát, sau đã đứng dậy đi lại, như chưa hề xảy ra chuyện gì.
Thấy vậy, Hoa Đà bèn hái một bó cành và lá cây đó mang về tìm hiểu, cho từng ít vào miệng nếm thử, thấy có vị cay. Là một thầy thuốc giỏi thiên phú, ông suy nghĩ mãi và cuối cùng ông đã ngộ ra rằng, lá của thứ cây đó có thể hóa giải được việc trúng độc cua của con rái cá. Suy nghĩ tiếp, ông nhận thấy, cua là loại vật sống dưới nước, dòng máu lạnh, tính hàn, như vậy theo nguyên tắc “hàn giả nhiệt chi” (bệnh hàn thì dùng thuốc nóng để chữa) thì cành lá thứ cây màu tím đó phải có tính ôn.
Từ đó về sau, cứ đến mùa cua, hễ có người ăn quá nhiều cua mà bị trúng độc, đau bụng và tìm đến chữa, Hoa Đà đều dùng lá của thứ cây màu tím đó sắc lấy nước cho bệnh nhân uống, đều rất linh nghiệm, chỉ một lúc sau là người bệnh đã cảm thấy dễ chịu. Từ đó Hoa Đà đặt tên cho thứ cây đó là Tử thư. Vì là thứ cây lá màu tím và uống vào cảm thấy thư thái.
Về sau trong quá trình sử dụng, người ta còn phát hiện ngoài tác dụng của cây tía tô là giải trúng độc cua, thứ cây màu tím này còn có rất nhiều tác dụng khác nữa. chỉ có điều, hiện nay vị thuốc thu hái toàn thân của thứ cây màu tím này không còn được gọi là Tử thư nữa, mà là biến đổi thành Tử tô. Đó là do Tử thư và Tử tô, phát âm gần giống như nhau. Mà cũng có thể, do nhầm lẫn trong ghi chép của đời sau vậy.
Tác dụng của cây tía tô:
Về phương thuốc giải độc của cây Tía tô trong truyền thuyết nói trên. Ngày nay được dùng để giải độc khi ăn nhằm các loại hải sản (cua, cá..) bằng cách dùng một nắm lá Tía tô tươi (250g) giã nát vắt lấy nước cho uống.
Một trường hợp do người viết đã chữa trị bị trúng độc cá nóc ở Phú Quốc (tên Vỹ) rất hiệu quả bằng cách này. Sau đó kết hợp bài thuốc Tía tô giải độc thang gia giảm gồm: Tía tô 18g, Sinh khương (gừng tươi) 8g; Bạc hà 8g; Cam thảo 4g.
Ngoài tác dụng giải trúng độc cua, trong quá trình sử dụng tía tô làm thuốc, người ta còn phát hiện thêm rất nhiều tác dụng khác nữa. Đặc biệt nữa là, tất cả các bộ phận của cây đều có thể sử dụng để làm thuốc, Đông y thường sử dụng nhiều bài thuốc với những vị thuốc từ cây tía tô:
Tô diệp: là lá tía tô. Thu hái vào lúc cây bắt đầu có hoa là tốt nhất, phơi khô ở nơi râm mát và thoáng gió, cất đi dùng dần. Tô diệp được xếp vào loại thuốc “tân ôn giải biểu” (chữa cảm lạnh) thường dùng để chữa chứng cảm hàn nhẹ. Theo Đông y, tô diệp có vị cay, tính ẩm, vào các kinh Phế và Tùy. Có tác dụng phát biểu tán hàn (giải cảm lạnh), lý khí hòa trung (điều hòa chức năng tiêu hóa) và an thai. Chủ trị ngoại cảm phong hàn, tỳ vị khí trệ (đầy bụng, tiêu hóa kém), thai động không yên, giải độc cua, mật cá.
Tô ngạnh: Cành tía tô. Theo Đông y, tô ngạnh có vị ngọt, tính ôn bình, vào 3 kinh Phế – Tỳ – Vị. Có tác dụng điều khí giải uất, giảm đau, an thai, làm mạnh dạ dày, chống nôn mửa. Chủ trị ngực bụng đầy tức, động thai.
Tác dụng giải cảm của tô ngạnh không mạnh bằng tô diệp, nhưng lại có thêm tác dụng điều khí giải uất tương đối bình hòa, nên rất thích hợp với trường hợp cơ thể suy nhược.
Tử tô: là quả chín của cây tía tô (thường gọi nhầm là hạt vì hạt tía tô rất nhỏ, nằm bên trong quả). Theo Đông y, tử tô có vị cay, tính ấm. Quy vào 2 kinh Phế và Đại tràng; có tác dụng giáng khí bình suyễn, trừ đàm, nhuận tràng, dùng trong các trường hợp cổ họng tắc nghẽn, khó thở, ho suyễn, ngực đầy tức..
Tử tô bao: là nụ hoa Tía tô, có tính bình hòa, có tác dụng làm ra mồ hôi để giải cảm mà không gây ảnh hưởng khí, thường dùng kê thuốc cho bệnh nhân là trẻ em, người già yếu, phụ nữ đang mang thai hoặc sau khi sanh cơ thể suy nhược bị cảm lạnh, một số trường hợp xuất huyết khác.
Tô đầu: Phần rễ và phần thân già ở sát gốc, gọi là Tô đầu, cũng có tính năng tương tự như Tử tô bao. Bột gốc và rễ Tía tô phơi khô tán ra có thể cầm máu vết thương nhẹ phần mềm.
Theo thuocyhocdantoc.com