Luôn cảm thấy buồn chán, bi quan, khó tập trung, ngại giao tiếp, chán ăn, sụt cân nhanh… là những dấu hiệu cảnh báo bạn đang mắc trầm cảm.

Trầm cảm là một rối loạn rất phổ biến trong dân số, nhưng chỉ có tỉ lệ thấp được phát hiện và điều trị theo đúng chuyên khoa. Tuy nhiên rối loạn trầm cảm là rối loạn có thể chữa được để bệnh nhân ổn định và tái hòa nhập với xã hội, nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời với sự hợp tác tốt của người bệnh, gia đình và cộng đồng để bệnh nhân tuân thủ điều trị.

6 dấu hiệu cảnh báo bệnh trầm cảm bạn không nên chủ quan
6 dấu hiệu cảnh báo bệnh trầm cảm bạn không nên chủ quan

WHO mỗi năm nước ta có đến 5.000 người tự tử do bệnh trầm cảm. Tuy nhiên, trong số đó chỉ ít người nhận ra mình đang mắc chứng trầm cảm. Mỗi năm, bệnh trầm cảm cướp đi trung bình 850.000 mạng người. Đến năm 2020 trầm cảm là căn bệnh xếp hạng 2 về gánh nặng bệnh lý toàn cầu, chỉ sau bệnh lý về tim mạch, theo 24h.

Ước tính, có khoảng 3-5% dân số thế giới có rối loạn trầm cảm rõ rệt, tần suất nguy cơ mắc bệnh trầm cảm trong suốt cuộc đời là 15-20%. Tuy nhiên, chỉ có 25% người mắc trầm cảm được điều trị kịp thời và đúng phương pháp.

TS.BS Dương Minh Tâm, Trưởng phòng Điều trị Viện Sức khỏe tâm thần – Bệnh viện Bạch Mai trao đổi với Dân Trí cho biết, có đến 80% bệnh nhân trầm cảm không được điều trị đúng chuyên khoa bởi từ các dấu hiệu, họ thường đến bác sĩ nội, bác sĩ đa khoa để khám.

Những dấu hiệu cảnh báo bạn đang mắc bệnh trầm cảm:

– Luôn buồn chán, bi quan và mất quan tâm thích thú đối với các công việc hàng ngày, đồng thời mất sự cố gắng trong lao động chân tay, trí óc, mệt mỏi, kiệt sức.

– Luôn luôn nói dối không ai quan tâm đến mình, mình bị những người xung quanh bỏ rơi, kể cả người thân.

– Khó tập trung, suy giảm chú ý, hay quên, giao tiếp kém linh hoạt, thu mình lại trước bạn bè và gia đình, ngại giao tiếp.

– Trằn trọc khó ngủ, thức dậy sớm hoặc thèm ngủ mà không thể ngủ được.

– Luôn lo lắng vô cớ và ý nghĩ tội lỗi với người thân, tự ti, cảm thấy mình vô dụng, nghĩ ngợi liên quan đến chết chóc.

– Có ý nghĩ và hành vi tự sát và quan tâm đến cái chết nhiều hơn. Đối với trẻ em, thường xuyên hỏi về những thành viên trong gia đình cũng như cách mà những người này đã ra đi. Những câu chuyện về cái chết dường như luôn thu hút được sự chú ý của trẻ khi bị bệnh.

– Chán ăn, sụt cân nhanh chóng

– Hứng thú công việc, cuộc sống giảm sút mạnh, thậm chí biến mất.

– Bình luận thấp bản thân, những người bị bệnh luôn cảm thấy bản thân mình trên thực tế chẳng có tài năng hay không làm tốt bất cứ việc gì kể cả việc nhỏ và đơn giản nhất. Họ luôn cho rằng mình là đồ thải, hay kiến thức của mình đã sụt giảm trầm trọng hay thậm chí là cảm giác tội lỗi, tội ác tràn đầy.

Ngoài ra, người trầm cảm rất ngại giao tiếp kể cả với người thân và cũng lười vận động hơn bình thường. Họ thích im lặng, thu mình trong góc, nhìn vẻ ngoài họ luôn buồn chán, và cô độc.

Theo TS Tâm, nghiên cứu trên của Mỹ cho thấy có tới 48% những người trầm cảm có ý tưởng tự sát và 24% những người có toan tự sát được báo cáo là không nhận được sự hỗ trợ điều trị trước đó.

Còn tại Viện Sức khỏe tâm thần, nghiên cứu năm 2016 ở những bệnh nhân từ 45 tuổi bị trầm cảm có tỉ lệ 36,5% ý định hoặc hành vi tự sát. Đa số tự sát do bệnh nhân cảm thấy mình vô dụng, tội lỗi, không xứng đáng sống.

Tại bệnh viện Bạch Mai, Tiến sĩ Tâm cũng cho biết khoa ông có sự phối hợp rất chặt chẽ với Trung tâm chống độc, thường xuyên đón bệnh nhân ngộ độc vì tự tử sang điều trị. Rất nhiều trong số bệnh nhân trầm cảm tìm đến cái chết vì họ không cố vượt qua được nỗi buồn, cảm giác không muốn sống.

“Sau một thời gian dài rơi vào trạng thái suy giảm trí nhớ (bệnh nhân hầu như không nhớ gì, nhầm lẫn nhiều), trống rỗng, buồn chán, rối loạn giấc ngủ, ăn uống suy giảm… Bệnh nhân luôn cố vượt qua nỗi buồn chán, nhưng cố mãi không được, họ nghĩ đến cái chết cho xong. Cố mãi, cố mãi và không vượt qua được, cuối cùng bệnh nhân tự sát thật”, Tiến sĩ Tâm nói.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến trầm cảm, do nội sinh, ngoại sinh, do stress. Đặc biệt, dễ dẫn tới trầm cảm khi xảy ra các biến cố như mất mát người thân; Li dị, sống độc thân; Thiếu sự hỗ trợ chăm sóc từ xã hội, cộng đồng; Tiền sử gia đình có người bị trầm cảm; Lạm dụng rượu và các chất ma túy; Thay đổi môi trường sống, thay đổi công việc; Thất nghiệp, hoặc có các bệnh cơ thể mạn tính; Bị lạm dụng thể chất, lạm dụng tình dục; Xung đột cá nhân trong các mối quan hệ.

Đặc biệt, phụ nữ có nguy cơ mắc trầm cảm nhiều hơn nam giới 2 lần, ở người phụ nữ: sự thay đổi hormone ở lứa tuổi dậy thì, trong chu kỳ kinh nguyệt, giai đoạn mang thai, bị sảy thai, giai đoạn mãn kinh có thể làm tăng nguy cơ trầm cảm.

Theo các chuyên gia khẳng định, trầm cảm là bệnh có thể điều trị được, tuy nhiên bệnh dễ bị tái phát.

Khi nghi ngờ chính mình hoặc người thân bị trầm cảm thì cần nắm vững những triệu chứng kể trên để phát hiện sớm các biểu hiện bất thường. Bên cạnh đó, kịp thời đưa người bệnh đến khám tại các cơ sở y tế chăm sóc sức khỏe tâm thần.

Nếu người thân bị trầm cảm, nên động viên, an ủi người bệnh và cho họ uống thuốc đều đúng chỉ định của bác sĩ.

Phương Nam