Chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc vào năm 1945, để lại con số thương vong trên toàn châu Âu là hơn 70 triệu người, trong đó 60% là dân thường. Những người này chết vì đói, bệnh dịch, tên rơi, đạn lạc. Nhưng đau xót hơn cả, 6 triệu người trong số đó chết vì họ là người… Do Thái. Hơn 70 năm đã trôi qua, nỗi đau ấy vẫn chưa thể nguôi ngoai.
Đi thuyền dọc dòng sông Danube thơ mộng trong thành phố Budapest cổ kính và đài các thuộc đất nước Hungary xinh đẹp, thả hồn theo nhịp valse lúc khoan thai, khi dồn dập, da diết từ tuyệt phẩm “Dòng Danube xanh” của nhà soạn nhạc nổi tiếng người Áo Johann Strauss II, cách tòa nhà quốc hội Hungary gần 100m, du khách bất chợt rùng mình khi nhìn thấy hàng chục đôi giày to, nhỏ, lớn, bé bằng sắt, đã rỉ sét, nằm lạnh lẽo hướng mũi ra mặt sông, như vẫn đang chờ đợi chủ nhân của chúng quay về. Lại gần, mới biết đó là khu tưởng niệm những nạn nhân người Do Thái đã bị giết hại trong chiến tranh thế giới thứ II.
Khu tưởng niệm có chiều dài 40m, trưng bày 60 đôi giày các kích cỡ kiểu dáng khác nhau, là ý tưởng của đạo diễn điện ảnh người Hungary, ông Can Togay. Ông đã cùng nhà điêu khắc Gyula Pauer dựng lên chúng từ năm 2005. Bên cạnh đó là tấm biển ghi bằng 3 ngôn ngữ: Anh, Hungary và Do Thái.
“Để tưởng nhớ các nạn nhân bị bắn chết bên dòng sông Danube vào những năm 1944-45. Khởi công ngày 16/4/2005”.
Năm 1933, Adolf Hitler, quốc trưởng Đức đã vận động và cổ vũ chiến dịch bài trừ người Do Thái với lý do họ là căn nguyên khiến nước Đức không giành được chiến thắng trong Đại chiến thế giới lần thứ nhất và rằng, người Đức (tức là người Aryan), chủng tộc được coi là siêu đẳng nhất, muốn làm bá chủ toàn cầu, thì cần phải “đấu tranh”, “tiêu diệt” những dân tộc hạ đẳng, trong đó đầu tiên phải kể đến “chủng tộc Do Thái”.
Hitler lấy học thuyết Darwin về Xã hội (Social-Darwinist Ideology) – một học thuyết chủ trương áp dụng máy móc nguyên lý đấu tranh sinh tồn trong thế giới hoang dã vào xã hội loài người làm cơ sở cho tội ác diệt chủng của mình. Học thuyết Darwin về Xã hội cho rằng, cũng như thế giới tự nhiên, xã hội loài người phải tiến hoá thông qua quá trình đấu tranh sinh tồn, trong đó chủng tộc nào thông minh hơn, khoẻ mạnh hơn, thích nghi với môi trường tốt hơn sẽ là chủng tộc có quyền tồn tại; chủng tộc nào dốt nát, ốm yếu, kém thích nghi với môi trường sẽ bị đào thải. Chính tư tưởng này đã khiến không biết bao nhiêu người phải bỏ mạng sống trên dòng sông xinh đẹp.
Vào năm 1944, trong Thế chiến II, Đảng Mũi tên Chữ Thập (Arrow Cross) đã bắn chết vô số người dân Do Thái bên bờ sông Danube. Thi thể của những nạn nhân xấu số đều bị vứt xuống sông, duy chỉ có những đôi giày, thời đó là tài sản có giá trị, được giữ lại, vì chúng có thể được dùng hoặc được bán.
Mọi người ghé qua đây thường sẽ để lại nến và hoa, hoặc sẽ lưu lại đôi dòng trong mảnh giấy nhỏ gài vào những chiếc giày bên bờ sông, bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn đối với những linh hồn vô tội.
150 năm đã qua kể từ ngày nhà soạn nhạc người Áo, bên dòng sông Danube vĩnh biệt mối tình trong mộng của mình, đạt đến tận cùng của cảm xúc, xuất thần sáng tác ra bản tình ca tuyệt mỹ “Dòng Danube xanh”, để ngày hôm nay, hàng triệu trái tim tìm được một nửa của mình trong điệu valse quyến rũ ấy.
Chiến tranh đã chấm dứt hơn 70 năm. Nhưng nỗi đau và tàn tích của nó vẫn còn đó, ám ảnh, day dứt như những vết thương không bao giờ lành miệng.
Dòng Danube kia vẫn lặng lẽ, âm thầm chảy trôi và chứng kiến những buồn, vui, được mất của con người trong cả chiều dài lịch sử…
Tuệ Minh – An Nhiên